• Hải quân Hoa Kỳ

    Hoạt động 13/10/1775[1]–đến nay Quốc gia Hoa Kỳ Quân chủng Hải quân Lực lượng 319.950 người 284 tàu chiến +3700 phi cơ 11 Hàng không mẫu hạm 9 tàu tấn công đổ bộ 8 tàu vận tải viễn chinh 12 tàu vận tải bến 22 Tuần dương hạm 62 khu trục hạm 23 khinh hạm 3 tàu tác chiến duyên hải 71 tàu ngầm Bộ phận thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Bộ Hải quân Hoa Kỳ Tổng hành dinh Ngũ Giác Đài Khẩu hiệu "Non sibi sed patriae" (không vì mình mà vì quốc gia) Màu sắc Hành khúc Anchors Aweigh Tham chiến Chiến tranh Cách mạng Mỹ Chiến tranh Mỹ-Mexico Nội chiến Hoa Kỳ Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha Chiến tranh Mỹ-Philippines Chiến tranh chống Nghĩa Hòa Đoàn Đệ nhất Thế chiến Đệ nhị Thế chiến Chiến tranh Triều Tiên Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh vùng vịnh Chiến tranh Kosovo Chiến tranh Afghanistan Chiến tranh Iraq Các tư lệnh Tư lệnh HQ Đô đốc Jonathan W. Greenert Tư lệnh phó HQ Đô đốc Mark Ferguson Phi cơ sử dụng Cường kích F/A-18AC/D, F/A-18E/F Super Hornet, F-35C Điện tử E-2C, EP-3E, E-6, EA-6B, EA-18G Khu trục F/A-18C/D, F/A-18E/F Trực thăng UH-1, SH-3, CH-53D, MH-53E, SH-60, MH-60, CH-60 Tuần tra P-3, P-8 Thám thính RQ-2 Huấn luyện F-5, F-16N, T-2C, T-6, T-34, T-39, T-44, T-45, TH-57 Vận tải C-2, C-12, C-20, C-40, C-130 . xem tiếp >> [...]

  • Cơ sở và căn cứ trên bờ

    Các bộ tư lệnh đặt trách trên bờ tồn tại để hỗ trợ sứ mệnh của các hạm đội đi biển qua việc sử dụng các cơ sở vật chất trên bờ. Các cơ sở vật chất trên bờ rất là cần thiết cho các hoạt động liên tục và sẵn sàng của các lực lượng hải quân qua việc cung cấp nhiều dịch vụ như sửa chữa tàu, tiếp vận,... Nhiều bộ tư lệnh khác nhau hiện diện đã phản ánh được mức độ phức tạp của Hải quân Hoa Kỳ ngày nay gồm có các hoạt động tình báo hải quân đến viện huấn luyện nhân sự đến việc bảo trì các cơ sở vật chất. Hai bộ tư lệnh trông coi về việc sửa chữa và tiếp vận là Bộ tư lệnh đặc trách Hệ thống Hải lực Hải quân (Naval Sea Systems Command) và Bộ tư lệnh đặc trách Hệ thống Không lực Hải quân (Naval Air Systems Command). Các bộ tư lệnh khác như Cục Tình báo Hải quân (Office of Naval Intelligence), Cơ quan Quan sát Hải quân Hoa Kỳ (United States Naval Observatory), và Đại học Chiến tranh Hải quân (Naval War College) tập trung vào chiến lược và tình báo. Các bộ tư lệnh đào tạo gồm có Trung tâm Chiến tranh Không lực và Tấn công Hải quân (Naval Strike and Air Warfare Center) và Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Hải quân duy trì một số bộ tư lệnh các lực lượng hải quân để điều hành các cơ sở vật chất trên bờ và phục vụ như các đơn vị liên lạc với các lực lượng trên bộ địa phương thuộc không quân và lục quân. Các bộ tư lệnh này nằm dưới quyền của các tư lệnh hạm đội. Trong thời chiến tranh, tất cả các lực lượng hải quân được tăng cường để trở thành các lực lượng đặc nhiệm của một hạm đội chính. Một số bộ tư lệnh lực lượng hải quân lớn hơn tại Thái Bình Dương gồm có Các lực lượng Hải quân tại Triều Tiên (Commander Naval Forces Korea), Các lực lượng Hải quân tại Marianas (Commander Naval Forces Marianas), và Các lực lượng Hải quân tại Nhật Bản (Commander Naval Forces Japan) Xem tiếp >>[...]

  • Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự (Military Sealift Command)

    Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự (Military Sealift Command) không chỉ phục vụ Hải quân Hoa Kỳ mà còn phục vụ toàn thể Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong vai trò là cơ quan vận tải quân dụng đường biển. Cơ quan này vận chuyển trang bị, xăng dầu, đạn dược, và các vật liệu hàng hóa khác cho Quân đội Hoa Kỳ trên toàn thế giới. Trên 95% đồ tiếp liệu cần thiết cho Quân đội Hoa Kỳ được Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự vận chuyển.[24] Cơ quan này có khoảng 120 tàu vận tải và khoảng 100 chiếc trừ bị. Bộ tư lệnh này là độc nhất vô nhị vì nhân lực trên các tàu của nó không phải là các quân nhân Hải quân hiện dịch mà là các nhân viên dân sự hay các thủy thủ thương mại hợp đồng. Xem tiếp >>[...]

  • Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ (U.S. Naval Special Warfare Command)

    Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ (U.S. Naval Special Warfare Command) được thành lập vào ngày 16 tháng 4 năm 1987 tại Căn cứ Đổ bộ Hải quân Coronado ở San Diego, California. Nó hoạt động như một thành phần hải quân của Bộ tư lệnh Hành quân Đặc biệt Hoa Kỳ (United States Special Operations Command) có tổng hành dinh ở Tampa, Florida. Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân cung cấp tầm nhìn, sự lãnh đạo, hướng dẫn học thuyết, nguồn lực và tổng quan để bảo đảm cho thành phần hải quân của các lực lượng hành quân đặc biệt sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng nhu cầu tác chiến của các tư lệnh tác chiến. Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ có tổng quân số 5.400 người trong đó có 2.450 binh sĩ SEAL và 600 binh sĩ thuộc lực lượng Special Warfare Combatant-craft Crewmen. Bộ tư lệnh này cũng duy trì một lực lượng trừ bị khoảng 1.200 binh sĩ trong đó có 325 binh sĩ SEAL, 125 binh sĩ "Special Warfare Combatant-craft Crewmen" và 775 nhân sự hỗ trợ Xem tiếp >>[...]

  • Sĩ quan

    Các sĩ quan trong hải quân có cấp bậc lương từ O-1 đến O-10 trong đó bậc lương cao nhất là O-10; những người có bậc lương giữa O-1 đến O-4 được xem là các sĩ quan bậc thấp; O-5 và O-6 là cao cấp. Các sĩ quan từ bậc lương O-7 đến O-10 được gọi là các tướng soái (flag officer) hay "đô đốc". Việc thăng chức đến bậc lương O-8 (chuẩn đô đốc được dựa trên thành tích của một sĩ quan và do chính mình báo cáo và được cấp trên phê chuẩn. Việc thăng chức đến cấp phó đô đốc (O-9) và đô đốc (O-10) dựa trên vị trí công tác đặc biệt được giao phó và phải được Thượng viện Hoa Kỳ phê chuẩn. Cấp bậc trên đô đốc là thủy sư đô đốc (O-11) chỉ được gắn cho bốn sĩ quan trong thời Đệ nhị Thế chiến và chỉ có ý định tưởng thưởng trong lúc có chiến tranh được tuyên bố (tuyên chiến). Năm 1899, một cấp bậc thủy sư đô đốc có tên gọi tiếng Anh là "Admiral of the Navy" được tạo ra để tưởng thưởng cho đô đốc George Dewey, anh hùng của cuộc Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha nhưng với điều kiện cấp bậc này không còn hiện hữu khi ông mất.[28][29] Các sĩ quan thường được chia thành hai nhóm là sĩ quan chủ lực và sĩ quan công chính. Đến lượt sĩ quan chủ lực được phân ra thành hai nhóm nhỏ là có giới hạn và không giới hạn. Sĩ quan chủ lực không giới hạn là thuộc thành phần tư lệnh tác chiến và có quyền chỉ huy các con tàu, các phi đoàn không lực, và các đơn vị hành quân đặc biệt. Các sĩ quan chủ lực có giới hạn thì tập trung vào các lĩnh vực không liên quan đến tác chiến như kỹ thuật và bảo trì; nhóm này không đủ chuẩn để chỉ huy các đơn vị tác chiến. Các sĩ quan công chính là những chuyên viên trong những lĩnh vực chuyên môn của họ và không có liên quan đến quân sự như y tế, khoa học, luật pháp hay kỹ sư công chính. Xem tiếp >>[...]

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2015

Posted by Unknown
No comments | 23:58
Manny “Pacman” Pacquiao là nhà vô địch thế giới của 7 hạng cân khác nhau và được nhắc đến với cái tên “Kẻ hủy diệt”.
Anh sinh ra và lớn lên tại một vùng quê đói nghèo cùng cực để rồi trở thành võ sĩ quyền Anh danh giá nhất ngày hôm nay. Điều đáng ngạc nhiên hơn là anh không bao giờ khoe khoang về sự giàu có hay thành tích của mình. Dù ở đỉnh vinh quang, anh vẫn là người khiêm tốn, có đức tin và biết tôn trọng đối thủ cũng như người hâm mộ.
Câu chuyện thành công của Manny
Emmanuel “Manny” Dapidran Pacquiao sinh ngày 17/12/1978 ở Kibawe, Bukidnon tại đảo Minandon, Philippines. Sinh ra trong một gia đình Philippines nghèo đói điển hình, Manny Pacquiao bỏ học từ rất sớm khi vẫn còn đang ở tiểu học vì cha mẹ anh li dị. Trở thành đứa trẻ thất học, anh phụ mẹ bán bánh mỳ và làm bánh rán bán dạo dọc đường phố General Santos City.
Lớn hơn một chút, Manny đã mang sẵn trong mình niềm đam mê bộ môn boxing. Khi không phải lang thang ngoài đường để bán hàng, anh lại đến các làng và thị trấn lân cận để tham dự các giải đấu boxing, đặc biệt là ở các dịp lễ hội, nơi mà phần thưởng cho người thắng có khi chỉ là 150 pêsô (3 đô la) và người thua được 110 pêsô (2 đô la). Số tiền anh kiếm được đã giúp mẹ con anh trang trải cuộc sống qua ngày.
Pacquiao bắt đầu sự nghiệp boxing chuyên nghiệp khi mới 16 tuổi ở hạng cân 48kg. Với sự nhanh nhẹn và sức mạnh của mình, anh đã thắng rất nhiều trận. Một ngày nọ, anh được một nhân vật có máu mặt trong làng boxing mời đến Manila để trau dồi thêm kỹ năng cho mình. Anh đã không ngần ngại nhận lời. Tuy nhiên, mẹ anh, bà Dionisa lại không đồng ý để con trai mình tham gia. Bà cho rằng boxing là môn thể thao bạo lực và Manny có thể sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm. Dù vậy, bằng niềm đam mê và sự háo hức, Manny vẫn đến Manila để tiếp tục luyện tập.

Ở Manila, Manny đã rèn luyện hết mình với sự tận tâm dành cho boxing. Những trận đầu tiên của mình, anh luôn giành chiến thắng, nhưng cũng giống như rất nhiều võ sĩ không tên tuổi khác, số tiền thưởng anh nhận được rất ít và không đủ để gửi về cho mẹ. Để có thêm thu nhập, Manny đã làm việc ở phòng gym nơi anh tập luyện và nhiều công việc khác nhau như làm vườn, dọn vệ sinh và đôi khi là cả xây dựng trong khi vẫn theo đuổi sự nghiệp boxing.
Nhắc về sự tận tâm với boxing của Manny, nhiều người nói rằng anh đã tập luyện như thể không còn có ngày mai nữa. Ngày nào cũng vậy, anh luôn là người dậy sớm nhất và ra về sau mọi người. Với cam kết của mình, anh đã giành được 11 trận thắng liên tiếp trước khi thua trận đầu tiên của giải chuyên nghiệp trước Rustico Torrecampo ngày 9/2/1996. Rustico cũng là võ sĩ người Philippine duy nhất đánh bại được Manny Pacquiao.
Manny tiếp tục chuỗi knock-out các đối thủ người Nhật, Thái và Hàn. Không lâu sau đó, anh giành giải vô địch thế giới vào ngày 24/12/1998 khi chỉ mới 19 tuổi. Đó là trận anh gặp Chatchai Sasakul, nhà ĐKVĐ hạng ruồi do WBC (Hội đồng boxing thế giới) tổ chức hồi ấy.
Với chiến thắng này, Pacquiao tiếp tục tập luyện hăng say hơn và chuyển sang các hạng nặng hơn của boxing. Ở trận đấu boxing đầu tiên tại MGM Grand Arena, thành phố Las Vegas, tiểu bang Nevada, Mỹ, Manny đã gặp người sau này là Siêu vô địch hạng gà của IBF (Liên đoàn boxing quốc tế), Lehlohonolo Ledwaba vào tháng 6/2001. Chiến thắng tuy chỉ đem lại một món tiền thưởng nhỏ cho anh nhưng đã khiến tên tuổi Manny Pacquiao vang dội khắp nước Mỹ.
Sau đó, Manny tiếp tục bảo vệ thành công danh hiệu của mình. Anh đã tập cùng huấn luyện viên Freddie Roach ở Wild Card Gym để cải thiện tốc độ tay và luyện cho mình có một tinh thần vững vàng, ổn định. Sau này, anh trở thành vô địch thế giới nhờ đánh bại Marco Antonio Barrera bằng 1 cú TKO ở hiệp 11. Kể từ đó, trận nào của anh cũng thu hút người xem ở quê nhà Philippines. Khi anh thượng đài, đường phố ở Manila vắng teo và tỉ lệ tội phạm giảm hẳn trong suốt thời gian diễn ra trận đấu.
Chỉ 6 tháng sau trận với Barrera, ngày 8/5/2004 anh lại thách thức một võ sĩ khác, Juan Miguel Marquez, lúc đó đang nắm giữ danh hiệu vô địch hạng lông của cả WBA (Hiệp hội boxing thế giới) và IBF. Trận đấu kết thúc với tỉ số hòa khiến cho người hâm mộ hai bên đều cảm thấy cay đắng. Tuy vậy, Manny đã kiếm được 1 triệu đô la ở trận này.
Pacquiao lại một lần nữa lên hạng nặng hơn và thách đấu với một võ sĩ người Mexico, Eric Morales vào ngày 19/3/2005 ở giải thế giới tổ chức tại Nevada. Tuy bị thua nhưng sau đó gần 1 năm, anh đã đánh bại được Morales ở trận thứ hai.
Tháng 7/2006, Manny đấu với Oscar Larios, 2 lần vô địch hạng gà. Trận đấu kết thúc khi Manny hạ Larios bằng 1 cú TKO vào hiệp thứ 12. Sau trận này, anh đã gặp Jorge Solis, đấu trận thứ hai với Barrera, tái đấu Marquez, đấu với Cậu bé vàng Oscar De La Hoya, và cuối cùng là Ricky Hatton. Pacquiao đã đánh bại tất cả để trở thành huyền thoại của boxing thế giới và đạt đến ngưỡng tay đấm triệu đô.
Được xếp hàng những người Philippine giàu có, Manny Pacquiao vẫn rất khiêm tốn. Năm 2009 tạp chí Time bình chọn anh là một trong những vận động viên tuyệt vời nhất năm đưa Manny đứng vào hàng ngũ những người có ảnh hưởng nhất năm. Forbes cũng đưa anh vào danh sách 100 người của năm ấy. Anh là vận động viên có thu nhập cao thứ 6 khi kiếm được 40 triệu đô là vào nửa cuối năm 2008 và nửa đầu năm 2009. Đồng thời anh cũng là vận động viên Philippine đầu tiên được in hình lên tem thư.
Khi được hỏi về công thức của chiến thắng, Manny thường nhắc đến sự tận tâm, kiên trì, lòng dũng cảm, tính kỷ luật cao và cầu nguyện là bí quyết của mình. Anh từng tuyên bố: “Ai cũng có thể thành công trong bất cứ lĩnh vực nào của cuộc sống nếu như sở hữu những đức tính của một nhà vô địch quyền anh”.
Thật sự, Manny Pacquiao được xem như một trong những võ sĩ giỏi nhất không phải chỉ trong nghề nghiệp mà cả trong cách ứng xử. Anh không khoe khoang tiền bạc, không đeo vàng hay kim cương để phô trương với bạn bè hay đối xử với họ như với những người ở tầng lớp thấp hơn. Anh vẫn giữ nguyên bạn bè cũ, mời họ đến biệt thự của mình và thường xuyên chu cấp cho những người thân nhất.
Manny là người tiên phong cho thế hệ trẻ tự đi tìm thành công trong cuộc sống, biết tôn trọng người khác, là biểu tượng của sự khiêm tốn và tính chuyên nghiệp. Hy vọng rằng rồi đây anh sẽ ngày càng gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp võ sĩ của mình.
(Sưu tầm)

0 nhận xét:

Tổng số lượt xem trang

Blog Archive

LIÊN HỆ

Tên

Email *

Thông báo *

Sample text