• Sĩ quan

    Các sĩ quan trong hải quân có cấp bậc lương từ O-1 đến O-10 trong đó bậc lương cao nhất là O-10; những người có bậc lương giữa O-1 đến O-4 được xem là các sĩ quan bậc thấp; O-5 và O-6 là cao cấp. Các sĩ quan từ bậc lương O-7 đến O-10 được gọi là các tướng soái (flag officer) hay "đô đốc". Việc thăng chức đến bậc lương O-8 (chuẩn đô đốc được dựa trên thành tích của một sĩ quan và do chính mình báo cáo và được cấp trên phê chuẩn. Việc thăng chức đến cấp phó đô đốc (O-9) và đô đốc (O-10) dựa trên vị trí công tác đặc biệt được giao phó và phải được Thượng viện Hoa Kỳ phê chuẩn. Cấp bậc trên đô đốc là thủy sư đô đốc (O-11) chỉ được gắn cho bốn sĩ quan trong thời Đệ nhị Thế chiến và chỉ có ý định tưởng thưởng trong lúc có chiến tranh được tuyên bố (tuyên chiến). Năm 1899, một cấp bậc thủy sư đô đốc có tên gọi tiếng Anh là "Admiral of the Navy" được tạo ra để tưởng thưởng cho đô đốc George Dewey, anh hùng của cuộc Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha nhưng với điều kiện cấp bậc này không còn hiện hữu khi ông mất.[28][29] Các sĩ quan thường được chia thành hai nhóm là sĩ quan chủ lực và sĩ quan công chính. Đến lượt sĩ quan chủ lực được phân ra thành hai nhóm nhỏ là có giới hạn và không giới hạn. Sĩ quan chủ lực không giới hạn là thuộc thành phần tư lệnh tác chiến và có quyền chỉ huy các con tàu, các phi đoàn không lực, và các đơn vị hành quân đặc biệt. Các sĩ quan chủ lực có giới hạn thì tập trung vào các lĩnh vực không liên quan đến tác chiến như kỹ thuật và bảo trì; nhóm này không đủ chuẩn để chỉ huy các đơn vị tác chiến. Các sĩ quan công chính là những chuyên viên trong những lĩnh vực chuyên môn của họ và không có liên quan đến quân sự như y tế, khoa học, luật pháp hay kỹ sư công chính. Xem tiếp >>[...]

  • Hải quân Hoa Kỳ

    Hoạt động 13/10/1775[1]–đến nay Quốc gia Hoa Kỳ Quân chủng Hải quân Lực lượng 319.950 người 284 tàu chiến +3700 phi cơ 11 Hàng không mẫu hạm 9 tàu tấn công đổ bộ 8 tàu vận tải viễn chinh 12 tàu vận tải bến 22 Tuần dương hạm 62 khu trục hạm 23 khinh hạm 3 tàu tác chiến duyên hải 71 tàu ngầm Bộ phận thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Bộ Hải quân Hoa Kỳ Tổng hành dinh Ngũ Giác Đài Khẩu hiệu "Non sibi sed patriae" (không vì mình mà vì quốc gia) Màu sắc Hành khúc Anchors Aweigh Tham chiến Chiến tranh Cách mạng Mỹ Chiến tranh Mỹ-Mexico Nội chiến Hoa Kỳ Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha Chiến tranh Mỹ-Philippines Chiến tranh chống Nghĩa Hòa Đoàn Đệ nhất Thế chiến Đệ nhị Thế chiến Chiến tranh Triều Tiên Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh vùng vịnh Chiến tranh Kosovo Chiến tranh Afghanistan Chiến tranh Iraq Các tư lệnh Tư lệnh HQ Đô đốc Jonathan W. Greenert Tư lệnh phó HQ Đô đốc Mark Ferguson Phi cơ sử dụng Cường kích F/A-18AC/D, F/A-18E/F Super Hornet, F-35C Điện tử E-2C, EP-3E, E-6, EA-6B, EA-18G Khu trục F/A-18C/D, F/A-18E/F Trực thăng UH-1, SH-3, CH-53D, MH-53E, SH-60, MH-60, CH-60 Tuần tra P-3, P-8 Thám thính RQ-2 Huấn luyện F-5, F-16N, T-2C, T-6, T-34, T-39, T-44, T-45, TH-57 Vận tải C-2, C-12, C-20, C-40, C-130 . xem tiếp >> [...]

  • Cơ sở và căn cứ trên bờ

    Các bộ tư lệnh đặt trách trên bờ tồn tại để hỗ trợ sứ mệnh của các hạm đội đi biển qua việc sử dụng các cơ sở vật chất trên bờ. Các cơ sở vật chất trên bờ rất là cần thiết cho các hoạt động liên tục và sẵn sàng của các lực lượng hải quân qua việc cung cấp nhiều dịch vụ như sửa chữa tàu, tiếp vận,... Nhiều bộ tư lệnh khác nhau hiện diện đã phản ánh được mức độ phức tạp của Hải quân Hoa Kỳ ngày nay gồm có các hoạt động tình báo hải quân đến viện huấn luyện nhân sự đến việc bảo trì các cơ sở vật chất. Hai bộ tư lệnh trông coi về việc sửa chữa và tiếp vận là Bộ tư lệnh đặc trách Hệ thống Hải lực Hải quân (Naval Sea Systems Command) và Bộ tư lệnh đặc trách Hệ thống Không lực Hải quân (Naval Air Systems Command). Các bộ tư lệnh khác như Cục Tình báo Hải quân (Office of Naval Intelligence), Cơ quan Quan sát Hải quân Hoa Kỳ (United States Naval Observatory), và Đại học Chiến tranh Hải quân (Naval War College) tập trung vào chiến lược và tình báo. Các bộ tư lệnh đào tạo gồm có Trung tâm Chiến tranh Không lực và Tấn công Hải quân (Naval Strike and Air Warfare Center) và Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Hải quân duy trì một số bộ tư lệnh các lực lượng hải quân để điều hành các cơ sở vật chất trên bờ và phục vụ như các đơn vị liên lạc với các lực lượng trên bộ địa phương thuộc không quân và lục quân. Các bộ tư lệnh này nằm dưới quyền của các tư lệnh hạm đội. Trong thời chiến tranh, tất cả các lực lượng hải quân được tăng cường để trở thành các lực lượng đặc nhiệm của một hạm đội chính. Một số bộ tư lệnh lực lượng hải quân lớn hơn tại Thái Bình Dương gồm có Các lực lượng Hải quân tại Triều Tiên (Commander Naval Forces Korea), Các lực lượng Hải quân tại Marianas (Commander Naval Forces Marianas), và Các lực lượng Hải quân tại Nhật Bản (Commander Naval Forces Japan) Xem tiếp >>[...]

  • Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự (Military Sealift Command)

    Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự (Military Sealift Command) không chỉ phục vụ Hải quân Hoa Kỳ mà còn phục vụ toàn thể Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong vai trò là cơ quan vận tải quân dụng đường biển. Cơ quan này vận chuyển trang bị, xăng dầu, đạn dược, và các vật liệu hàng hóa khác cho Quân đội Hoa Kỳ trên toàn thế giới. Trên 95% đồ tiếp liệu cần thiết cho Quân đội Hoa Kỳ được Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự vận chuyển.[24] Cơ quan này có khoảng 120 tàu vận tải và khoảng 100 chiếc trừ bị. Bộ tư lệnh này là độc nhất vô nhị vì nhân lực trên các tàu của nó không phải là các quân nhân Hải quân hiện dịch mà là các nhân viên dân sự hay các thủy thủ thương mại hợp đồng. Xem tiếp >>[...]

  • Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ (U.S. Naval Special Warfare Command)

    Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ (U.S. Naval Special Warfare Command) được thành lập vào ngày 16 tháng 4 năm 1987 tại Căn cứ Đổ bộ Hải quân Coronado ở San Diego, California. Nó hoạt động như một thành phần hải quân của Bộ tư lệnh Hành quân Đặc biệt Hoa Kỳ (United States Special Operations Command) có tổng hành dinh ở Tampa, Florida. Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân cung cấp tầm nhìn, sự lãnh đạo, hướng dẫn học thuyết, nguồn lực và tổng quan để bảo đảm cho thành phần hải quân của các lực lượng hành quân đặc biệt sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng nhu cầu tác chiến của các tư lệnh tác chiến. Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ có tổng quân số 5.400 người trong đó có 2.450 binh sĩ SEAL và 600 binh sĩ thuộc lực lượng Special Warfare Combatant-craft Crewmen. Bộ tư lệnh này cũng duy trì một lực lượng trừ bị khoảng 1.200 binh sĩ trong đó có 325 binh sĩ SEAL, 125 binh sĩ "Special Warfare Combatant-craft Crewmen" và 775 nhân sự hỗ trợ Xem tiếp >>[...]

  • Sĩ quan

    Các sĩ quan trong hải quân có cấp bậc lương từ O-1 đến O-10 trong đó bậc lương cao nhất là O-10; những người có bậc lương giữa O-1 đến O-4 được xem là các sĩ quan bậc thấp; O-5 và O-6 là cao cấp. Các sĩ quan từ bậc lương O-7 đến O-10 được gọi là các tướng soái (flag officer) hay "đô đốc". Việc thăng chức đến bậc lương O-8 (chuẩn đô đốc được dựa trên thành tích của một sĩ quan và do chính mình báo cáo và được cấp trên phê chuẩn. Việc thăng chức đến cấp phó đô đốc (O-9) và đô đốc (O-10) dựa trên vị trí công tác đặc biệt được giao phó và phải được Thượng viện Hoa Kỳ phê chuẩn. Cấp bậc trên đô đốc là thủy sư đô đốc (O-11) chỉ được gắn cho bốn sĩ quan trong thời Đệ nhị Thế chiến và chỉ có ý định tưởng thưởng trong lúc có chiến tranh được tuyên bố (tuyên chiến). Năm 1899, một cấp bậc thủy sư đô đốc có tên gọi tiếng Anh là "Admiral of the Navy" được tạo ra để tưởng thưởng cho đô đốc George Dewey, anh hùng của cuộc Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha nhưng với điều kiện cấp bậc này không còn hiện hữu khi ông mất.[28][29] Các sĩ quan thường được chia thành hai nhóm là sĩ quan chủ lực và sĩ quan công chính. Đến lượt sĩ quan chủ lực được phân ra thành hai nhóm nhỏ là có giới hạn và không giới hạn. Sĩ quan chủ lực không giới hạn là thuộc thành phần tư lệnh tác chiến và có quyền chỉ huy các con tàu, các phi đoàn không lực, và các đơn vị hành quân đặc biệt. Các sĩ quan chủ lực có giới hạn thì tập trung vào các lĩnh vực không liên quan đến tác chiến như kỹ thuật và bảo trì; nhóm này không đủ chuẩn để chỉ huy các đơn vị tác chiến. Các sĩ quan công chính là những chuyên viên trong những lĩnh vực chuyên môn của họ và không có liên quan đến quân sự như y tế, khoa học, luật pháp hay kỹ sư công chính. Xem tiếp >>[...]

  • Hải quân Hoa Kỳ

    Hoạt động 13/10/1775[1]–đến nay Quốc gia Hoa Kỳ Quân chủng Hải quân Lực lượng 319.950 người 284 tàu chiến +3700 phi cơ 11 Hàng không mẫu hạm 9 tàu tấn công đổ bộ 8 tàu vận tải viễn chinh 12 tàu vận tải bến 22 Tuần dương hạm 62 khu trục hạm 23 khinh hạm 3 tàu tác chiến duyên hải 71 tàu ngầm Bộ phận thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Bộ Hải quân Hoa Kỳ Tổng hành dinh Ngũ Giác Đài Khẩu hiệu "Non sibi sed patriae" (không vì mình mà vì quốc gia) Màu sắc Hành khúc Anchors Aweigh Tham chiến Chiến tranh Cách mạng Mỹ Chiến tranh Mỹ-Mexico Nội chiến Hoa Kỳ Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha Chiến tranh Mỹ-Philippines Chiến tranh chống Nghĩa Hòa Đoàn Đệ nhất Thế chiến Đệ nhị Thế chiến Chiến tranh Triều Tiên Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh vùng vịnh Chiến tranh Kosovo Chiến tranh Afghanistan Chiến tranh Iraq Các tư lệnh Tư lệnh HQ Đô đốc Jonathan W. Greenert Tư lệnh phó HQ Đô đốc Mark Ferguson Phi cơ sử dụng Cường kích F/A-18AC/D, F/A-18E/F Super Hornet, F-35C Điện tử E-2C, EP-3E, E-6, EA-6B, EA-18G Khu trục F/A-18C/D, F/A-18E/F Trực thăng UH-1, SH-3, CH-53D, MH-53E, SH-60, MH-60, CH-60 Tuần tra P-3, P-8 Thám thính RQ-2 Huấn luyện F-5, F-16N, T-2C, T-6, T-34, T-39, T-44, T-45, TH-57 Vận tải C-2, C-12, C-20, C-40, C-130 . xem tiếp >> [...]

Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2015

Posted by Unknown
No comments | 21:03

NGUỒN GỐC NHỮNG LOẠI NGỌC PHONG THỦY QUÝ HIẾM CỦA TRUNG HOA

Trong “Đông Châu Liệt Quốc” có nói : “Nhà Chu có ngọc Chỉ Ách, nước Tống có ngọc Kết Lục, nước Sở có ngọc Biện Hòa, nước Lương có ngọc Huyền Lê.”

Người Hoa cho rằng ngọc là vật quý, hội đủ 5 đức tính cơ bản của con người gồm: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, do đó ngọc rất được tôn sùng. Ngày xưa, chỉ những nhà quyền quý mới có thể sở hữu ngọc, vua chúa dùng nó làm biểu tượng cho quyền lực, địa vị tối cao (như ngọc tỷ - con dấu riêng của hoàng đế dùng đóng dưới các văn kiện quan trọng). Có thời, dân thường không được dùng bạch ngọc làm của riêng, bởi nó chỉ được dùng làm ngọc tỷ, ngọc bội cho hoàng thất mà thôi.
Các bạn có biết???
Khoảng 300 năm trước công nguyên, ở nước Sở, vào thời Lệ Vương, có Biện Hòa là 1 thường dân may mắn tìm được 1 hòn đá tảng, ông ta biết chắc bên trong là loại ngọc cực quý nên đi hiến cho vua để tỏ dạ trung thành. Lệ Vương nhìn thấy hòn đá thô thiển, có ý xem thường, bèn bảo 1 viên thái giám đập ra mài thử xem thật giả. Tên thái giám này sợ Biện Hòa có công dâng ngọc sẽ được sủng ái hơn mình nên bảo là đồ giả, khiến Biện Hòa bị chặt mất 1 chân.
Ấn Ngọc - Một trong những biểu tượng của sự quyền thế

Ít lâu sau, Lệ Vương băng hà, Vũ Vương kế vị. Biện Hòa lại xin vào dâng ngọc, viên quan được vua sai thử ngọc có tư thù với ông nên lại tâu là đồ giả, khiến Biện Hòa bị chặt nốt chân kia. Quá uất hận, Biện Hòa ôm tảng đá, lao đầu vào tường toan tự tử, Vũ Vương ngăn lại, cho người đập vỡ tảng đá ,đích thân xem xét phiến ngọc và nhận ra nó cực kỳ quý giá. Nhà vua hối hận nhưng đã muộn, vì Biện Hòa đã tàn phế, máu của ông đã loang đỏ khắp sân triều. Từ đó, viên ngọc quý này được gọi là "Biện Hòa bích ngọc" hay "Hoà thị bích"-viên ngọc đẫm máu trong lịch sử Trung Hoa.
Thứ ngọc quý được nói đến ở trên vốn chỉ là 1 loại đá trắng trong nhân của đá tảng. Ngày nay người ta cắt thành từng miếng vuông rồi mài dũa công phu thành chiếc vòng trơn láng, sau đó nhuộm với 1 loại thuốc nhuộm cực mạnh trong lò áp suất khoảng 24h rồi vớt ra treo thành từng chùm phơi cho thật nguội, lưu ý là mọi quy trình đều thực hiện trong phòng kín. Vì thế người thợ làm nghề này từ 5-10 năm là 2 lá phổi đã tổn thương hoàn toàn. Thế mà vẫn có hàng tỉ người Trung Quốc quyết tâm gìn giữ chiếc vòng truyền thống này .
Nói thế chắc các bạn ai cũng nghĩ đó là chiếc vòng Cẩm Thạch. Thế nhưng loại Cẩm Thạch này lại có xuất xứ từ Miến Điện (Mianma). Cẩm Thạch Miến Điện thì nó màu xanh và ánh sáng xuyên qua nhìn rất đẹp, đây mới được gọi là "Lục Ngọc hoàng gia". Cẩm thạch có cái tên như vậy cũng vì thứ ngọc này ngày xưa được hoàng tộc thu mua hết rồi chạm trổ thành báu vật và được đặt tên riêng .
Đây là 1 cây cải bằng ngọc tuyệt đẹp đầy tinh tế của nghệ nhân Trung Quốc, biết dùng phần ngọc màu xanh để làm lá cải còn phần ngọc màu trắng làm thân cải, cái hay ở chỗ cả 2 phần ngọc xanh và trắng này đều cùng 1 khối ngọc.
Bắp cải Phong Thủy bằng ngọc phỉ thúy - một tác phẩm tuyệt đẹp
Ắt hẳn các bạn đều nghe nhắc đến tên ngọc Phỉ Thuý vì loại ngọc này xuất hiện nhiều nhất trong những bộ phim cổ trang Trung Quốc. Thật vậy, đời Từ Hy thái hậu, loại ngọc này đã rất quý giá và có trị giá liên thành. Đây là 1 loại ngọc bích cự kì quý hiếm, ngọc có màu sắc trong suốt, thuần xanh lá mạ non.
Người xưa tương truyền nếu tạc xong 1 bức tượng hình chim bằng loại ngọc Phỉ Thúy này... thì đừng nên "điểm tinh" cho con chim (điểm tinh là dùng màu đen chấm vào tròng mắt con chim). Nếu điểm tinh thì con chim nầy trước sau nó cũng bay mất, cho dù chủ nhân cất giữ cách nào đi chăng nữa... nó thành loại chim đẹp như chim Phỉ Thúy rồi.
Ngọc bích có độ cứng rất cao nên người xưa dùng ngọc làm vũ khí như: mũi tên, dao găm... họ tin tưởng khi chết nên dùng ngọc làm áo quan. Triệu Đà dùng ngọc làm áo giáp, quan tài... ông ta dùng đến 2000 miếng ngọc loại cực tốt, xanh um... đính với dây vàng... làm áo quan vô cùng lộng lẫy... Nhiều huyệt mộ xưa thời nhà Chu, người ta đào thấy nhiều mảnh ngọc dẹt y như cái dĩa cơm, nhưng lỗ khuyết ngay tâm, vì họ biết đó là biểu tượng thiêng. Trong tiểu thuyết Kim Dung cũng có nhắc đến 1 loại vũ khí được làm bằng ngọc, đó là Lục Ngọc trượng-trấn bang chi bảo của Cái Bang, chỉ có bang chủ mới được sở hữu, sử dụng và cứ thế, các tiền nhiệm bang chủ lại truyền cho đời sau.
Rồng Xanh bằng ngọc bích - chuyên dùng để hóa giải kẻ tiểu nhân
Theo niềm tin của người Hoa, ngọc thạch có những tính năng siêu phàm: trị bệnh, giải độc, giúp trường sinh bất lão, giữ xác chết mãi mãi nguyên vẹn, mang lại phúc lành, yên lành...
Trong các ngôi mộ cổ được khai quật gần đây ở miền trung Trung Quốc, người ta tìm thấy rất nhiều ngọc thạch. 1 điều hết sức lạ ở những ngôi mộ đó là có rất nhiều ngọc thạch chôn theo, xác chết vẫn còn nguyên vẹn dù đã hơn 2.000 năm. Loại ngọc đó gọi là "ngọc chôn theo người chết" hay "ngọc dưới mồ".
Chẳng hạn như trường hợp của hoàng tử Liêu Thân và vợ là Tôn Vãn thuộc triều Hán, đã được chôn gần 2 thiên niên kỷ. Khi khai quật, những người chứng kiến đã vô cùng kinh ngạc bởi cả 2 xác chết vẫn còn nguyên vẹn, chẳng khác gì các xác ướp trong hầm mộ của người Ai Cập cổ đại. Các thi thể chẳng hề được tẩm ướp bất cứ thứ gì, nhưng bên cạnh có rất nhiều ngọc. Sau khi nghiên cứu kỹ, các nhà khai quật cho rằng, chính ngọc thạch đã giữ được sự nguyên vẹn của thi hài.
Những viên ngọc chôn 1 thời gian dài dưới mồ sau khi đào lên có sự biến đổi khác thường: bạch ngọc từ trong suốt trở nên đục hơn, từ bên trong ửng lên các vân màu hồng, giống như những sợi chỉ máu, cẩm thạch từ màu xanh lục biến thành sẫm hơn, ửng hồng như nhuộm với máu... riêng hồng ngọc, hoàng ngọc, lam ngọc... màu sắc cũng sẫm thêm nhưng khi đặt dưới ánh sáng mặt trời hay ánh sáng đèn, chúng rực lên 1 thứ ánh sáng lung linh kỳ dị, như từ 1 cõi u linh nào đó.
Người ta cho rằng, những viên ngọc đó đã thấm máu và tinh khí từ cơ thể người, hay đúng hơn là thấm hồn người chết. Do đó nó càng trở thành vô giá, cực kỳ linh thiêng.
Ngọc dạ minh châu - một loại ngọc hiếm
Tương truyền, Từ Hy Thái hậu vẫn giữ được sự tươi trẻ, uy nghiêm khi sắp qua đời là nhờ có khả năng kỳ diệu từ ngọc, bà ta được 1 nhà sư Tây Tạng bí mật chỉ cho cách dùng ngọc để giúp làn da mãi tươi nhuận, dù già vẫn không có nếp nhăn bằng cách: dùng ngọc trai nấu nhừ, tán nhuyễn, pha với sữa của phụ nữ có con so rồi thoa lên mặt, lên da mỗi buổi sáng và tối. Và quả thực Từ Hy khi đã trên 60 vẫn có nhan sắc của 1 phụ nữ trẻ.
Không chỉ vậy, người ta còn cho rằng sự tươi trẻ đó 1 phần cũng nhờ 2 viên bạch ngọc thuộc loại quý hiếm nhất, có kích cỡ bằng quả trứng mà thái hậu luôn mang theo người. Bà tin rằng nếu mãi giữ 2 viên ngọc quý bên người thì sinh lực dồi dào và đẩy lùi được mọi bệnh tật.
Vòng tay ngọc - 1 loại nữ trang của Từ Hy
Người Hoa đã biết dùng ngọc trên 7.000-8.000 năm nay rồi. Ngọc có nhiều màu sắc: đỏ, cam, vàng, lục, lam, trắng, đen, tím... nhưng người Hoa lại trọng màu xanh lá mạ nhất.
Đây là 1 số màu sắc tiêu biểu của ngọc:
Đây là 1 số màu sắc tiêu biểu của ngọc
Người Hoa cho rằng Ngọc phát xuất từ núi Côn Luân là tốt nhất. Nhưng thật sự không bằng ngọc phát xuất từ Miến Điện, tại xứ Miến có vài mỏ Cẩm Thạch lộ thiên, đa số tại cực bắc xứ Miến. Vì thế các loại ngọc tốt nhất có màu xanh lá mạ chính hiệu đều xuất thân từ Miến Điện.
Ngọc dạ minh châu - Với đường kính 1,6m, 
viên ngọc khổng lồ này đã trở thành viên ngọc lớn nhất thế giới.
Dạ minh châu là 1 loại ngọc hết sức kỳ lạ và giá trị của nó cũng được đánh giá qua sự kỳ lạ đó, loại ngọc này thường có dạng viên sau khi được mài dũa 1 cách tinh tế, loại ngọc này cực kỳ quý hiếm, chỉ có hoàng tộc mới được sở hữu và thường được dùng làm cống phẩm. Nét đặc trưng ở loại ngọc này là 1 tính năng không thể nhầm lẫn với bất kỳ 1 loại ngọc nào khác. Dù ở bất kỳ ánh sáng nào, viên dạ minh châu đều có thể tỏa ra 1 ánh sáng trong và đặc biệt quyến rũ khi ở trong bóng tối. Nguyên nhân dạ minh châu phát sáng là vì nó có chứa 1 tỉ lệ rất nhỏ hàm lượng các đồng vị phóng xạ [đa số là phốtpho(P)], các đồng vị phóng xạ này phân rã sinh ra các tia phóng xạ va đập vào các phân tử khác gây ra hiện tượng quang điện làm nó phát sáng. Tuy nhiên bạn có thể an tâm việc rằng vào 1 ngày đẹp trời nào đó, bỗng viên dạ minh châu của bạn tắt lịm, bởi vì chu kỳ bán rã của những chất phóng xạ này là rất lớn (hàng triệu năm).
Ngọc Trai - một loại ngọc quý dùng làm trang sức tuyệt đẹp
Đã nói đến ngọc Trung Hoa thì không thể nào bỏ sót trân châu hay còn gọi là ngọc trai, ngọc trai sau khi được khai thác và mài dũa là 1 vật hình cầu, cứng, được 1 số loài động vật tạo ra, chủ yếu là loài thân mềm (nhuyễn thể) như con trai. Ngọc trai được sử dụng làm đồ trang sức và cũng được tán thành bột để dùng trong mỹ phẩm. Ngọc trai được đánh giá là 1 loại đá quý, được nuôi và thu hoạch để làm đồ trang sức. Vì thế mà ngọc trai được chia làm 2 loại: ngọc trai nước mặn và nước ngọt, ngọc trai nước ngọt phần lớn là ngọc trai nuôi trong hồ, còn ngọc trai nước mặn được những con điệp, hàu bao sống ở các vịnh biển tạo ra. Thành phần chính của ngọc trai là xà cừ gồm canxi cacbonat và conchiolin do loài nhuyễn thể tiết ra. Giá trị của ngọc trai được đánh giá qua độ lớn và ngọc trai càng tự nhiên thì càng quý. Từ xưa, người Trung Quốc đã biết sử dụng ngọc trai nguyên như 1 loại trang sức và khi tán nhuyễn ra có thể dùng làm dược phẩm hay mỹ phẩm.
Tượng cóc 3 chân trong phong thuỷ được làm từ hắc ngọc.
Người Hoa ngày nay vẫn tin rằng ngọc thạch có nhiều khả năng kỳ lạ, huyền bí nên vẫn tôn sùng thứ bảo thạch đó và đem cái đam mê này truyền sang cho rất nhiều người trên thế giới.
Một phôi ngọc phỉ thúy tự nhiên

0 nhận xét:

Tổng số lượt xem trang

LIÊN HỆ

Tên

Email *

Thông báo *

Sample text