• Sĩ quan

    Các sĩ quan trong hải quân có cấp bậc lương từ O-1 đến O-10 trong đó bậc lương cao nhất là O-10; những người có bậc lương giữa O-1 đến O-4 được xem là các sĩ quan bậc thấp; O-5 và O-6 là cao cấp. Các sĩ quan từ bậc lương O-7 đến O-10 được gọi là các tướng soái (flag officer) hay "đô đốc". Việc thăng chức đến bậc lương O-8 (chuẩn đô đốc được dựa trên thành tích của một sĩ quan và do chính mình báo cáo và được cấp trên phê chuẩn. Việc thăng chức đến cấp phó đô đốc (O-9) và đô đốc (O-10) dựa trên vị trí công tác đặc biệt được giao phó và phải được Thượng viện Hoa Kỳ phê chuẩn. Cấp bậc trên đô đốc là thủy sư đô đốc (O-11) chỉ được gắn cho bốn sĩ quan trong thời Đệ nhị Thế chiến và chỉ có ý định tưởng thưởng trong lúc có chiến tranh được tuyên bố (tuyên chiến). Năm 1899, một cấp bậc thủy sư đô đốc có tên gọi tiếng Anh là "Admiral of the Navy" được tạo ra để tưởng thưởng cho đô đốc George Dewey, anh hùng của cuộc Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha nhưng với điều kiện cấp bậc này không còn hiện hữu khi ông mất.[28][29] Các sĩ quan thường được chia thành hai nhóm là sĩ quan chủ lực và sĩ quan công chính. Đến lượt sĩ quan chủ lực được phân ra thành hai nhóm nhỏ là có giới hạn và không giới hạn. Sĩ quan chủ lực không giới hạn là thuộc thành phần tư lệnh tác chiến và có quyền chỉ huy các con tàu, các phi đoàn không lực, và các đơn vị hành quân đặc biệt. Các sĩ quan chủ lực có giới hạn thì tập trung vào các lĩnh vực không liên quan đến tác chiến như kỹ thuật và bảo trì; nhóm này không đủ chuẩn để chỉ huy các đơn vị tác chiến. Các sĩ quan công chính là những chuyên viên trong những lĩnh vực chuyên môn của họ và không có liên quan đến quân sự như y tế, khoa học, luật pháp hay kỹ sư công chính. Xem tiếp >>[...]

  • Hải quân Hoa Kỳ

    Hoạt động 13/10/1775[1]–đến nay Quốc gia Hoa Kỳ Quân chủng Hải quân Lực lượng 319.950 người 284 tàu chiến +3700 phi cơ 11 Hàng không mẫu hạm 9 tàu tấn công đổ bộ 8 tàu vận tải viễn chinh 12 tàu vận tải bến 22 Tuần dương hạm 62 khu trục hạm 23 khinh hạm 3 tàu tác chiến duyên hải 71 tàu ngầm Bộ phận thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Bộ Hải quân Hoa Kỳ Tổng hành dinh Ngũ Giác Đài Khẩu hiệu "Non sibi sed patriae" (không vì mình mà vì quốc gia) Màu sắc Hành khúc Anchors Aweigh Tham chiến Chiến tranh Cách mạng Mỹ Chiến tranh Mỹ-Mexico Nội chiến Hoa Kỳ Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha Chiến tranh Mỹ-Philippines Chiến tranh chống Nghĩa Hòa Đoàn Đệ nhất Thế chiến Đệ nhị Thế chiến Chiến tranh Triều Tiên Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh vùng vịnh Chiến tranh Kosovo Chiến tranh Afghanistan Chiến tranh Iraq Các tư lệnh Tư lệnh HQ Đô đốc Jonathan W. Greenert Tư lệnh phó HQ Đô đốc Mark Ferguson Phi cơ sử dụng Cường kích F/A-18AC/D, F/A-18E/F Super Hornet, F-35C Điện tử E-2C, EP-3E, E-6, EA-6B, EA-18G Khu trục F/A-18C/D, F/A-18E/F Trực thăng UH-1, SH-3, CH-53D, MH-53E, SH-60, MH-60, CH-60 Tuần tra P-3, P-8 Thám thính RQ-2 Huấn luyện F-5, F-16N, T-2C, T-6, T-34, T-39, T-44, T-45, TH-57 Vận tải C-2, C-12, C-20, C-40, C-130 . xem tiếp >> [...]

  • Cơ sở và căn cứ trên bờ

    Các bộ tư lệnh đặt trách trên bờ tồn tại để hỗ trợ sứ mệnh của các hạm đội đi biển qua việc sử dụng các cơ sở vật chất trên bờ. Các cơ sở vật chất trên bờ rất là cần thiết cho các hoạt động liên tục và sẵn sàng của các lực lượng hải quân qua việc cung cấp nhiều dịch vụ như sửa chữa tàu, tiếp vận,... Nhiều bộ tư lệnh khác nhau hiện diện đã phản ánh được mức độ phức tạp của Hải quân Hoa Kỳ ngày nay gồm có các hoạt động tình báo hải quân đến viện huấn luyện nhân sự đến việc bảo trì các cơ sở vật chất. Hai bộ tư lệnh trông coi về việc sửa chữa và tiếp vận là Bộ tư lệnh đặc trách Hệ thống Hải lực Hải quân (Naval Sea Systems Command) và Bộ tư lệnh đặc trách Hệ thống Không lực Hải quân (Naval Air Systems Command). Các bộ tư lệnh khác như Cục Tình báo Hải quân (Office of Naval Intelligence), Cơ quan Quan sát Hải quân Hoa Kỳ (United States Naval Observatory), và Đại học Chiến tranh Hải quân (Naval War College) tập trung vào chiến lược và tình báo. Các bộ tư lệnh đào tạo gồm có Trung tâm Chiến tranh Không lực và Tấn công Hải quân (Naval Strike and Air Warfare Center) và Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Hải quân duy trì một số bộ tư lệnh các lực lượng hải quân để điều hành các cơ sở vật chất trên bờ và phục vụ như các đơn vị liên lạc với các lực lượng trên bộ địa phương thuộc không quân và lục quân. Các bộ tư lệnh này nằm dưới quyền của các tư lệnh hạm đội. Trong thời chiến tranh, tất cả các lực lượng hải quân được tăng cường để trở thành các lực lượng đặc nhiệm của một hạm đội chính. Một số bộ tư lệnh lực lượng hải quân lớn hơn tại Thái Bình Dương gồm có Các lực lượng Hải quân tại Triều Tiên (Commander Naval Forces Korea), Các lực lượng Hải quân tại Marianas (Commander Naval Forces Marianas), và Các lực lượng Hải quân tại Nhật Bản (Commander Naval Forces Japan) Xem tiếp >>[...]

  • Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự (Military Sealift Command)

    Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự (Military Sealift Command) không chỉ phục vụ Hải quân Hoa Kỳ mà còn phục vụ toàn thể Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong vai trò là cơ quan vận tải quân dụng đường biển. Cơ quan này vận chuyển trang bị, xăng dầu, đạn dược, và các vật liệu hàng hóa khác cho Quân đội Hoa Kỳ trên toàn thế giới. Trên 95% đồ tiếp liệu cần thiết cho Quân đội Hoa Kỳ được Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự vận chuyển.[24] Cơ quan này có khoảng 120 tàu vận tải và khoảng 100 chiếc trừ bị. Bộ tư lệnh này là độc nhất vô nhị vì nhân lực trên các tàu của nó không phải là các quân nhân Hải quân hiện dịch mà là các nhân viên dân sự hay các thủy thủ thương mại hợp đồng. Xem tiếp >>[...]

  • Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ (U.S. Naval Special Warfare Command)

    Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ (U.S. Naval Special Warfare Command) được thành lập vào ngày 16 tháng 4 năm 1987 tại Căn cứ Đổ bộ Hải quân Coronado ở San Diego, California. Nó hoạt động như một thành phần hải quân của Bộ tư lệnh Hành quân Đặc biệt Hoa Kỳ (United States Special Operations Command) có tổng hành dinh ở Tampa, Florida. Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân cung cấp tầm nhìn, sự lãnh đạo, hướng dẫn học thuyết, nguồn lực và tổng quan để bảo đảm cho thành phần hải quân của các lực lượng hành quân đặc biệt sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng nhu cầu tác chiến của các tư lệnh tác chiến. Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ có tổng quân số 5.400 người trong đó có 2.450 binh sĩ SEAL và 600 binh sĩ thuộc lực lượng Special Warfare Combatant-craft Crewmen. Bộ tư lệnh này cũng duy trì một lực lượng trừ bị khoảng 1.200 binh sĩ trong đó có 325 binh sĩ SEAL, 125 binh sĩ "Special Warfare Combatant-craft Crewmen" và 775 nhân sự hỗ trợ Xem tiếp >>[...]

  • Sĩ quan

    Các sĩ quan trong hải quân có cấp bậc lương từ O-1 đến O-10 trong đó bậc lương cao nhất là O-10; những người có bậc lương giữa O-1 đến O-4 được xem là các sĩ quan bậc thấp; O-5 và O-6 là cao cấp. Các sĩ quan từ bậc lương O-7 đến O-10 được gọi là các tướng soái (flag officer) hay "đô đốc". Việc thăng chức đến bậc lương O-8 (chuẩn đô đốc được dựa trên thành tích của một sĩ quan và do chính mình báo cáo và được cấp trên phê chuẩn. Việc thăng chức đến cấp phó đô đốc (O-9) và đô đốc (O-10) dựa trên vị trí công tác đặc biệt được giao phó và phải được Thượng viện Hoa Kỳ phê chuẩn. Cấp bậc trên đô đốc là thủy sư đô đốc (O-11) chỉ được gắn cho bốn sĩ quan trong thời Đệ nhị Thế chiến và chỉ có ý định tưởng thưởng trong lúc có chiến tranh được tuyên bố (tuyên chiến). Năm 1899, một cấp bậc thủy sư đô đốc có tên gọi tiếng Anh là "Admiral of the Navy" được tạo ra để tưởng thưởng cho đô đốc George Dewey, anh hùng của cuộc Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha nhưng với điều kiện cấp bậc này không còn hiện hữu khi ông mất.[28][29] Các sĩ quan thường được chia thành hai nhóm là sĩ quan chủ lực và sĩ quan công chính. Đến lượt sĩ quan chủ lực được phân ra thành hai nhóm nhỏ là có giới hạn và không giới hạn. Sĩ quan chủ lực không giới hạn là thuộc thành phần tư lệnh tác chiến và có quyền chỉ huy các con tàu, các phi đoàn không lực, và các đơn vị hành quân đặc biệt. Các sĩ quan chủ lực có giới hạn thì tập trung vào các lĩnh vực không liên quan đến tác chiến như kỹ thuật và bảo trì; nhóm này không đủ chuẩn để chỉ huy các đơn vị tác chiến. Các sĩ quan công chính là những chuyên viên trong những lĩnh vực chuyên môn của họ và không có liên quan đến quân sự như y tế, khoa học, luật pháp hay kỹ sư công chính. Xem tiếp >>[...]

  • Hải quân Hoa Kỳ

    Hoạt động 13/10/1775[1]–đến nay Quốc gia Hoa Kỳ Quân chủng Hải quân Lực lượng 319.950 người 284 tàu chiến +3700 phi cơ 11 Hàng không mẫu hạm 9 tàu tấn công đổ bộ 8 tàu vận tải viễn chinh 12 tàu vận tải bến 22 Tuần dương hạm 62 khu trục hạm 23 khinh hạm 3 tàu tác chiến duyên hải 71 tàu ngầm Bộ phận thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Bộ Hải quân Hoa Kỳ Tổng hành dinh Ngũ Giác Đài Khẩu hiệu "Non sibi sed patriae" (không vì mình mà vì quốc gia) Màu sắc Hành khúc Anchors Aweigh Tham chiến Chiến tranh Cách mạng Mỹ Chiến tranh Mỹ-Mexico Nội chiến Hoa Kỳ Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha Chiến tranh Mỹ-Philippines Chiến tranh chống Nghĩa Hòa Đoàn Đệ nhất Thế chiến Đệ nhị Thế chiến Chiến tranh Triều Tiên Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh vùng vịnh Chiến tranh Kosovo Chiến tranh Afghanistan Chiến tranh Iraq Các tư lệnh Tư lệnh HQ Đô đốc Jonathan W. Greenert Tư lệnh phó HQ Đô đốc Mark Ferguson Phi cơ sử dụng Cường kích F/A-18AC/D, F/A-18E/F Super Hornet, F-35C Điện tử E-2C, EP-3E, E-6, EA-6B, EA-18G Khu trục F/A-18C/D, F/A-18E/F Trực thăng UH-1, SH-3, CH-53D, MH-53E, SH-60, MH-60, CH-60 Tuần tra P-3, P-8 Thám thính RQ-2 Huấn luyện F-5, F-16N, T-2C, T-6, T-34, T-39, T-44, T-45, TH-57 Vận tải C-2, C-12, C-20, C-40, C-130 . xem tiếp >> [...]

Thứ Hai, 4 tháng 5, 2015

Posted by Unknown
No comments | 18:55

Sau một thời gian dài giữ bí mật, hôm qua (4/5), Bộ Quốc phòng Nga đã lần đầu tiên công bố trên website của mình hình ảnh đầy đủ về mẫu xe tăng chiến đấu chủ lực thế hệ mới Armata

Những hình ảnh được truyền thông Nga tiết lộ trước đó cho thấy xe tăng T-14 Armata xuất hiện với vải bạt phủ kín tháp pháo trong các buổi tập dượt chuẩn bị cho Lễ duyệt binh Ngày Chiến thắng diễn ra vào ngày 9/5 tới.

Giờ đây, mặc dù còn vài ngày nữa mới tới Lễ duyệt binh nhưng Bộ Quốc phòng Nga đã công bố hình ảnh đầy đủ của mẫu xe tăng này.
Ngoài ra, trong các hình ảnh được công bố còn có:
- Pháo tự hành Coalition-SV;
- Xe chiến đấu bộ binh Kurganets-25;
- Xe bọc thép chở quân Kurganets-25;
- Xe chiến đấu bộ binh BMP K-15 (sử dụng khung gầm xe tăng Armata);
- Xe bọc thép chở quân Boomerang và hệ thống tên lửa chống tăng Kornet-D1;
Hình ảnh chính thức về mẫu xe tăng hạng trung T-14 Armata do Bộ Quốc phòng Nga công bố.
Hình ảnh chính thức về mẫu xe tăng hạng trung T-14 Armata do Bộ Quốc phòng Nga công bố.
Hình ảnh thực tế của xe tăng hạng trung T-14 Armata.
Hình ảnh thực tế của xe tăng hạng trung T-14 Armata.
Qua quan sát, có thể thấy tháp pháo của T-14 Armata cao hơn so với tháp pháo của xe tăng T-90, phần phía sau tháp pháo được kéo dài và rất có thể đây là nơi chứa đạn.
Kiểu thiết kế đặt buồng chứa đạn riêng biệt này giúp giảm thiệt hại trong trường hợp xe tăng bị trúng hỏa lực dẫn đến gây nổ đạn, khiến tháp pháo bị bật tung nếu bố trí đạn bên trong tháp pháo.
Ngoài pháo chính (chưa rõ cỡ nòng), xe tăng Armata còn trang bị 1 súng máy cỡ 7,62mm điều khiển tự động.
Hình ảnh phía sau của xe tăng Armata.
Hình ảnh phía sau của xe tăng Armata.
Hình ảnh chính thức về mẫu xe chiến đấu bộ binh K-15 (dựa trên khung gầm xe tăng Armata) do Bộ Quốc phòng Nga công bố.
Hình ảnh chính thức về mẫu xe chiến đấu bộ binh K-15 (dựa trên khung gầm xe tăng Armata) do Bộ Quốc phòng Nga công bố.
Loại xe chiến đấu bộ binh K-15 (sử dụng khung gầm Armata) được trang bị 1 module chiến đấu với pháo 30mm, 4 tên lửa chống tăng (có thể là Kornet), cùng các hệ thống cảm biến và ngắm bắn.
Ngoài ra, mẫu xe này còn được trang bị lớp giáp yếm khá lạ mắt.
Hình ảnh chính thức về mẫu xe chiến đấu bộ binh Kurganets-25 do Bộ Quốc phòng Nga công bố.
Hình ảnh chính thức về mẫu xe chiến đấu bộ binh Kurganets-25 do Bộ Quốc phòng Nga công bố.
Xe chiến đấu bộ binh Kurganets-25 sử dụng chung loại module chiến đấu như xe chiến đấu bộ binh T-15, điểm khác biệt nằm ở khung gầm.
Khung gầm của Kurganets-25 cho phép chở nhiều binh lính và đổ bộ từ phía sau, 2 bên được lắp lớp giáp dày.
Hình ảnh chính thức về mẫu xe bọc thép chở quân Kurganets-25 do Bộ Quốc phòng Nga công bố.
Hình ảnh chính thức về mẫu xe bọc thép chở quân Kurganets-25 do Bộ Quốc phòng Nga công bố.
Xe bọc thép chở quân Kurganets-25 có thiết kế tương tự như xe chiến đấu bộ binh Kurganets-25, tuy nhiên, Kurganets-25 chỉ được trang bị súng máy hạng nặng cỡ nòng 12,7mm.
Hình ảnh thực tế của xe bọc thép chở quân Kurganets-25 (bên trái) và xe chiến đấu bộ binh Kurganets-25 (bên phải).
Hình ảnh thực tế của xe bọc thép chở quân Kurganets-25 (bên trái) và xe chiến đấu bộ binh Kurganets-25 (bên phải).
Cận cảnh súng máy hạng nặng cỡ nòng 12,7mm điều khiển tự động của xe bọc thép chở quân Kurganets-25.
Cận cảnh súng máy hạng nặng cỡ nòng 12,7mm điều khiển tự động của xe bọc thép chở quân Kurganets-25.
Hình ảnh chính thức về mẫu xe bọc thép chở quân Boomerang do Bộ Quốc phòng Nga công bố.
Xe bọc thép chở quân Boomerang cũng sử dụng tháp súng 12,7mm tương tự như xe bọc thép chở quân Kurganets-25.
So với các dòng xe bọc thép chở quân bánh lốp trước kia của Nga, Boomerang có thiết kế cao hơn, vị trí đổ quân được đưa về phía đuôi xe thay vì 2 bên hông, cửa đuôi cũng lớn hơn để binh lính có thể dễ dàng di chuyển.
Hỏa lực là súng máy hạng nặng 12,7mm cũng khá khiêm tốn so với súng máy hạng nặng 14,5mm trên BTR-80 hay pháo 30mm trên BTR-82A.
Hình ảnh chính thức về pháo tự hành Coalition-SV do Bộ Quốc phòng Nga công bố.
Hình ảnh chính thức về hệ thống tên lửa chống tăng Kornet-D1 do Bộ Quốc phòng Nga công bố.
Hình ảnh chính thức về hệ thống tên lửa chống tăng Kornet-D1 do Bộ Quốc phòng Nga công bố

Sự ra đời của Armata
Ngay từ khi được giới thiệu, Armata đã mang trong mình nhiều công nghệ chưa từng có tiền lệ trong tư duy chế tạo xe tăng không chỉ của Nga, mà còn trên tầm thế giới. Vậy xe tăng Armata có đặc điểm gì đáng nổi bật:
* Thiết kế dạng mô-đun hóa toàn bộ các kết cấu: Mặc dù Nga là nước đi sau so với phương Tây ở mảng công nghệ này, nhưng T-14 đi sau tỏ ra có nhiêu ưu việt hơn đối thủ.
Kết cấu xe T-14 chia thành 3 phần rõ ràng: Khoang tổ lái, khoang động lực và khoang hỏa lực.
Tư duy thiết kế các khoang dạng hộp xếp nên có thể thay đổi vị trí các khoang trên cùng khung gầm xe Armata mà không cần thay đổi lại nhiều thiết kế của xe.
Đây cũng là nền tảng giúp từ khung gầm Armata có thể phát triển nhiều dạng xe chiến đấu: Xe tăng, xe chiến đấu bộ binh, pháo tự hành, xe bảo trì-kỹ thuật….
Việc đồng bộ hóa các tiêu chuẩn kỹ thuật trên cùng một khung xe chung giúp đơn giản hóa quá trình bảo trì, bảo dưỡng và tính đa dụng trên chiến trường.
Bản cắt được cho là thiết kế chuẩn của xe tăng Armata.
Toàn bộ kíp lái được ngồi trong 1 khoang bọc thép kín ở phía trước thân xe.
Thép tấm 44S-sv-Sh trong một lần thử nghiệm.
Hình ảnh mô phỏng nguyên tắc hoạt động của hệ thống Aghanit.
Hình dáng chính thức của Aramta.
Nguyên mẫu xe tăng Armata tham gia lễ tổng duyệt Ngày Chiến thắng.
Việc bố trí các khoang riêng biệt cũng giúp nâng cao khả năng sống sót của tổ lái khi khoang hỏa lực trúng đạn.
* Kết cấu mở “để ngỏ” khả năng nâng cấp trong tương lai: Khung gầm Armata về hình dáng lớn hơn hẳn so với các dòng xe tăng Nga truyền thống với kết cấu 7 bánh chịu lực dàn đều trọng tại trên khung xe kết hợp với cụm giảm xóc dạng cản (theo nhiều nguồn tin là dạng thủy lực điều khiển chủ động) giúp xe mang vác được khối lượng trọng tải lớn, có độ ổn định và tự cân bằng cao nhất là khi mang các loại pháo lớn.
Từ các hình dáng được công bố, xe tăng Armata có thể vẫn mang pháo chính cỡ 125mm, nhưng là loại cải tiến (có thể là 2A82) với tính năng gấp 1,2-15 lần, tăng độ chính xác tới 15% so với các dòng pháo tăng hiện tại của Nga.
Tuy nhiên, với nền tảng khung gầm hiện tại, Armata trong tương lai đủ khả năng được trang bị các loại pháo tăng cỡ lớn 140 hoặc 152mm.
Đây là yếu tố cần thiết để mở đường cho việc áp dụng các loại đạn pháo tăng có khả năng tự dẫn mới và tăng sức mạnh hỏa lực cơ bản của xe tăng.
Nhiều khả năng, Armata vẫn dùng hỏa lực thứ cấp là súng máy đồng trục 7,62mm và súng máy hạng nặng 12,7mm điều khiển từ xa trên nóc tháp pháo với trục quay độc lập với pháo chính.
* Áp dụng các công nghệ bảo vệ chủ động, thụ động tân tiến nhất: Có thể nói chắc chắn xe tăng Armata sẽ được trang bị hệ thống giáp chính từ hợp kim thép 44S-sv-Sh phát triển bởi OJSC"NII Steel.
Theo giới thiệu của nhà sản xuất, công nghệ thép mới cho phép duy trì khả năng bảo vệ tương đương loại giáp cũ, nhưng trọng lượng giảm từ 15-20%.
Nhờ đó, Armata dù có tăng kích thước nhưng chắc chắn tổng trọng lượng toàn xe vẫn không tăng quá nhiều so với truyền thống xe tăng nặng chưa tới 50 tấn của Nga (giới chuyên gia nhận định Armata có thể nặng khoảng 55 tới 58 tấn ở trạng thái trang bị đầy đủ, sẵn sàng chiến đấu).
Kết hợp với lớp giáp chính, cần phải nhắc tới lớp giáp phản ứng nổ (ERA) thế hệ mới (chưa rõ tên định danh) với 2 khối chính bảo vệ tháp pháo, thân xe.
Với tổng khối lượng khoảng 1 tấn, hệ thống giáp này giúp Aramta đối phó tốt với các loại đạn hóa năng sử dụng hiệu ứng nổ lõm và ngăn chặn 1 phần sức xuyên phá động năng của đạn chống tăng dưới cỡ dạng thanh xuyên.
Phần đuôi xe, phía sau tháp pháo được lắp giáp lồng làm từ thép thanh được gia cường giúp giảm thiểu khả năng thiệt hại trong các môi trường tác chiến chật hẹp như đô thị, đồi núi…
Một yếu tố đặc biệt khi nhắc tới xe tăng Nga đó là hệ thống bảo vệ chủ động. Armata được giới thiệu sẽ mang tổ hợp Aghanit với nhiều tính năng độc đáo.
Aghanit ngăn chặn loại đạn chống tăng hóa năng tấn công xe tăng bằng đầu đạn hạt nhân với hiệu ứng nổ định hướng khác biệt so với đạn chùm của hệ thống Arena (E) thế hệ trước.
Bộ phận phóng đạn bao gồm giá trục quay 3 bậc tự do, theo mặt phẳng thẳng đứng và mặt phẳng ngang cung cấp khả năng bảo vệ hoàn toàn bán cầu trước của xe tăng.
Sử dụng sóng ra-đa băng tần mm, Aghanit đảm bảo khả năng ngăn chặn các loại đạn chống tăng có sơ tốc tới 1.700m/giây ở khoảng cách 15-20m.
Điểm mới nữa là người Nga đã thành công khi giải quyết thuật toán phóng nhiều đạn để ngăn chặn nhiều mục tiêu bắn vào xe tăng cùng lúc (các hệ thống trước đó chỉ có thể ngăn chặn từng mục tiêu và có thời gian trễ giữa các lần bắn).
Nếu điều này được khẳng định trên chiến trường thì sẽ là lợi thế lớn của xe tăng Nga.
* Tháp pháo tự động hóa và quản lý các thiết bị trên xe hoàn toàn tự động:
Đây chính là bước đột phá của xe tăng Armata. Việc 3 thành viên kíp lái ngồi trong khoang kín đặt thấp trong thân xe buộc Armata phải có hệ thống quan sát và điều khiển hỏa lực từ xa.
Các cảm biến lắp đặt ở các hệ thống trên xe sẽ cung cấp thông tin về máy tính trung tâm xử lý rồi hiển thị tới kíp lái.
Bất kỳ hỏng hóc hay trục trặc của xe đều được tính toán phương án xử lý rồi thông báo lại tới kíp lái.
Hệ thống điều phối hỏa lực đa kênh tổng hợp các thông số qua kênh quan sát quang, ảnh nhiệt kết hợp đo xa la-de và máy tính đạn đạo đưa ra tham số bắn chính xác giúp xạ thủ và trưởng xe có thể phân quyền tác xạ khi cần.
Từ các nguồn tin không chính thức, Armata có thể phát hiện mục tiêu ở điều kiện ban ngày cách 5km, ban đêm là 3,5km.
Hệ thống ổn định tháp pháo 3 trục giúp Armata khai hỏa tốt trong điều kiện hành tiến.
* Động cơ mạnh mẽ và tin cậy: Armata được lắp khối động cơ diesel turbo-piston 1.200 mã lực A-85-3A có thể đặt phía trước hoặc đặt phía sau thân xe. Dự trữ giờ hoạt động là 2000 giờ.
Dung tích động cơ đạt đến 4m3. Đây là dòng động cơ tăng áp chủ động với 12 xy lanh đặt hình chữ X cung cấp tới 1.200-1.500 mã lực.
Động cơ A-85-3A được hoàn thiện từ năm 2011 và đã được thử nghiệm trên Object 195 trong các điều kiện ngặt nghèo nhất với độ tin cậy cao.


By Soha.vn

0 nhận xét:

Tổng số lượt xem trang

Blog Archive

LIÊN HỆ

Tên

Email *

Thông báo *

Sample text