• Sĩ quan

    Các sĩ quan trong hải quân có cấp bậc lương từ O-1 đến O-10 trong đó bậc lương cao nhất là O-10; những người có bậc lương giữa O-1 đến O-4 được xem là các sĩ quan bậc thấp; O-5 và O-6 là cao cấp. Các sĩ quan từ bậc lương O-7 đến O-10 được gọi là các tướng soái (flag officer) hay "đô đốc". Việc thăng chức đến bậc lương O-8 (chuẩn đô đốc được dựa trên thành tích của một sĩ quan và do chính mình báo cáo và được cấp trên phê chuẩn. Việc thăng chức đến cấp phó đô đốc (O-9) và đô đốc (O-10) dựa trên vị trí công tác đặc biệt được giao phó và phải được Thượng viện Hoa Kỳ phê chuẩn. Cấp bậc trên đô đốc là thủy sư đô đốc (O-11) chỉ được gắn cho bốn sĩ quan trong thời Đệ nhị Thế chiến và chỉ có ý định tưởng thưởng trong lúc có chiến tranh được tuyên bố (tuyên chiến). Năm 1899, một cấp bậc thủy sư đô đốc có tên gọi tiếng Anh là "Admiral of the Navy" được tạo ra để tưởng thưởng cho đô đốc George Dewey, anh hùng của cuộc Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha nhưng với điều kiện cấp bậc này không còn hiện hữu khi ông mất.[28][29] Các sĩ quan thường được chia thành hai nhóm là sĩ quan chủ lực và sĩ quan công chính. Đến lượt sĩ quan chủ lực được phân ra thành hai nhóm nhỏ là có giới hạn và không giới hạn. Sĩ quan chủ lực không giới hạn là thuộc thành phần tư lệnh tác chiến và có quyền chỉ huy các con tàu, các phi đoàn không lực, và các đơn vị hành quân đặc biệt. Các sĩ quan chủ lực có giới hạn thì tập trung vào các lĩnh vực không liên quan đến tác chiến như kỹ thuật và bảo trì; nhóm này không đủ chuẩn để chỉ huy các đơn vị tác chiến. Các sĩ quan công chính là những chuyên viên trong những lĩnh vực chuyên môn của họ và không có liên quan đến quân sự như y tế, khoa học, luật pháp hay kỹ sư công chính. Xem tiếp >>[...]

  • Hải quân Hoa Kỳ

    Hoạt động 13/10/1775[1]–đến nay Quốc gia Hoa Kỳ Quân chủng Hải quân Lực lượng 319.950 người 284 tàu chiến +3700 phi cơ 11 Hàng không mẫu hạm 9 tàu tấn công đổ bộ 8 tàu vận tải viễn chinh 12 tàu vận tải bến 22 Tuần dương hạm 62 khu trục hạm 23 khinh hạm 3 tàu tác chiến duyên hải 71 tàu ngầm Bộ phận thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Bộ Hải quân Hoa Kỳ Tổng hành dinh Ngũ Giác Đài Khẩu hiệu "Non sibi sed patriae" (không vì mình mà vì quốc gia) Màu sắc Hành khúc Anchors Aweigh Tham chiến Chiến tranh Cách mạng Mỹ Chiến tranh Mỹ-Mexico Nội chiến Hoa Kỳ Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha Chiến tranh Mỹ-Philippines Chiến tranh chống Nghĩa Hòa Đoàn Đệ nhất Thế chiến Đệ nhị Thế chiến Chiến tranh Triều Tiên Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh vùng vịnh Chiến tranh Kosovo Chiến tranh Afghanistan Chiến tranh Iraq Các tư lệnh Tư lệnh HQ Đô đốc Jonathan W. Greenert Tư lệnh phó HQ Đô đốc Mark Ferguson Phi cơ sử dụng Cường kích F/A-18AC/D, F/A-18E/F Super Hornet, F-35C Điện tử E-2C, EP-3E, E-6, EA-6B, EA-18G Khu trục F/A-18C/D, F/A-18E/F Trực thăng UH-1, SH-3, CH-53D, MH-53E, SH-60, MH-60, CH-60 Tuần tra P-3, P-8 Thám thính RQ-2 Huấn luyện F-5, F-16N, T-2C, T-6, T-34, T-39, T-44, T-45, TH-57 Vận tải C-2, C-12, C-20, C-40, C-130 . xem tiếp >> [...]

  • Cơ sở và căn cứ trên bờ

    Các bộ tư lệnh đặt trách trên bờ tồn tại để hỗ trợ sứ mệnh của các hạm đội đi biển qua việc sử dụng các cơ sở vật chất trên bờ. Các cơ sở vật chất trên bờ rất là cần thiết cho các hoạt động liên tục và sẵn sàng của các lực lượng hải quân qua việc cung cấp nhiều dịch vụ như sửa chữa tàu, tiếp vận,... Nhiều bộ tư lệnh khác nhau hiện diện đã phản ánh được mức độ phức tạp của Hải quân Hoa Kỳ ngày nay gồm có các hoạt động tình báo hải quân đến viện huấn luyện nhân sự đến việc bảo trì các cơ sở vật chất. Hai bộ tư lệnh trông coi về việc sửa chữa và tiếp vận là Bộ tư lệnh đặc trách Hệ thống Hải lực Hải quân (Naval Sea Systems Command) và Bộ tư lệnh đặc trách Hệ thống Không lực Hải quân (Naval Air Systems Command). Các bộ tư lệnh khác như Cục Tình báo Hải quân (Office of Naval Intelligence), Cơ quan Quan sát Hải quân Hoa Kỳ (United States Naval Observatory), và Đại học Chiến tranh Hải quân (Naval War College) tập trung vào chiến lược và tình báo. Các bộ tư lệnh đào tạo gồm có Trung tâm Chiến tranh Không lực và Tấn công Hải quân (Naval Strike and Air Warfare Center) và Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Hải quân duy trì một số bộ tư lệnh các lực lượng hải quân để điều hành các cơ sở vật chất trên bờ và phục vụ như các đơn vị liên lạc với các lực lượng trên bộ địa phương thuộc không quân và lục quân. Các bộ tư lệnh này nằm dưới quyền của các tư lệnh hạm đội. Trong thời chiến tranh, tất cả các lực lượng hải quân được tăng cường để trở thành các lực lượng đặc nhiệm của một hạm đội chính. Một số bộ tư lệnh lực lượng hải quân lớn hơn tại Thái Bình Dương gồm có Các lực lượng Hải quân tại Triều Tiên (Commander Naval Forces Korea), Các lực lượng Hải quân tại Marianas (Commander Naval Forces Marianas), và Các lực lượng Hải quân tại Nhật Bản (Commander Naval Forces Japan) Xem tiếp >>[...]

  • Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự (Military Sealift Command)

    Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự (Military Sealift Command) không chỉ phục vụ Hải quân Hoa Kỳ mà còn phục vụ toàn thể Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong vai trò là cơ quan vận tải quân dụng đường biển. Cơ quan này vận chuyển trang bị, xăng dầu, đạn dược, và các vật liệu hàng hóa khác cho Quân đội Hoa Kỳ trên toàn thế giới. Trên 95% đồ tiếp liệu cần thiết cho Quân đội Hoa Kỳ được Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự vận chuyển.[24] Cơ quan này có khoảng 120 tàu vận tải và khoảng 100 chiếc trừ bị. Bộ tư lệnh này là độc nhất vô nhị vì nhân lực trên các tàu của nó không phải là các quân nhân Hải quân hiện dịch mà là các nhân viên dân sự hay các thủy thủ thương mại hợp đồng. Xem tiếp >>[...]

  • Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ (U.S. Naval Special Warfare Command)

    Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ (U.S. Naval Special Warfare Command) được thành lập vào ngày 16 tháng 4 năm 1987 tại Căn cứ Đổ bộ Hải quân Coronado ở San Diego, California. Nó hoạt động như một thành phần hải quân của Bộ tư lệnh Hành quân Đặc biệt Hoa Kỳ (United States Special Operations Command) có tổng hành dinh ở Tampa, Florida. Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân cung cấp tầm nhìn, sự lãnh đạo, hướng dẫn học thuyết, nguồn lực và tổng quan để bảo đảm cho thành phần hải quân của các lực lượng hành quân đặc biệt sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng nhu cầu tác chiến của các tư lệnh tác chiến. Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ có tổng quân số 5.400 người trong đó có 2.450 binh sĩ SEAL và 600 binh sĩ thuộc lực lượng Special Warfare Combatant-craft Crewmen. Bộ tư lệnh này cũng duy trì một lực lượng trừ bị khoảng 1.200 binh sĩ trong đó có 325 binh sĩ SEAL, 125 binh sĩ "Special Warfare Combatant-craft Crewmen" và 775 nhân sự hỗ trợ Xem tiếp >>[...]

  • Sĩ quan

    Các sĩ quan trong hải quân có cấp bậc lương từ O-1 đến O-10 trong đó bậc lương cao nhất là O-10; những người có bậc lương giữa O-1 đến O-4 được xem là các sĩ quan bậc thấp; O-5 và O-6 là cao cấp. Các sĩ quan từ bậc lương O-7 đến O-10 được gọi là các tướng soái (flag officer) hay "đô đốc". Việc thăng chức đến bậc lương O-8 (chuẩn đô đốc được dựa trên thành tích của một sĩ quan và do chính mình báo cáo và được cấp trên phê chuẩn. Việc thăng chức đến cấp phó đô đốc (O-9) và đô đốc (O-10) dựa trên vị trí công tác đặc biệt được giao phó và phải được Thượng viện Hoa Kỳ phê chuẩn. Cấp bậc trên đô đốc là thủy sư đô đốc (O-11) chỉ được gắn cho bốn sĩ quan trong thời Đệ nhị Thế chiến và chỉ có ý định tưởng thưởng trong lúc có chiến tranh được tuyên bố (tuyên chiến). Năm 1899, một cấp bậc thủy sư đô đốc có tên gọi tiếng Anh là "Admiral of the Navy" được tạo ra để tưởng thưởng cho đô đốc George Dewey, anh hùng của cuộc Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha nhưng với điều kiện cấp bậc này không còn hiện hữu khi ông mất.[28][29] Các sĩ quan thường được chia thành hai nhóm là sĩ quan chủ lực và sĩ quan công chính. Đến lượt sĩ quan chủ lực được phân ra thành hai nhóm nhỏ là có giới hạn và không giới hạn. Sĩ quan chủ lực không giới hạn là thuộc thành phần tư lệnh tác chiến và có quyền chỉ huy các con tàu, các phi đoàn không lực, và các đơn vị hành quân đặc biệt. Các sĩ quan chủ lực có giới hạn thì tập trung vào các lĩnh vực không liên quan đến tác chiến như kỹ thuật và bảo trì; nhóm này không đủ chuẩn để chỉ huy các đơn vị tác chiến. Các sĩ quan công chính là những chuyên viên trong những lĩnh vực chuyên môn của họ và không có liên quan đến quân sự như y tế, khoa học, luật pháp hay kỹ sư công chính. Xem tiếp >>[...]

  • Hải quân Hoa Kỳ

    Hoạt động 13/10/1775[1]–đến nay Quốc gia Hoa Kỳ Quân chủng Hải quân Lực lượng 319.950 người 284 tàu chiến +3700 phi cơ 11 Hàng không mẫu hạm 9 tàu tấn công đổ bộ 8 tàu vận tải viễn chinh 12 tàu vận tải bến 22 Tuần dương hạm 62 khu trục hạm 23 khinh hạm 3 tàu tác chiến duyên hải 71 tàu ngầm Bộ phận thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Bộ Hải quân Hoa Kỳ Tổng hành dinh Ngũ Giác Đài Khẩu hiệu "Non sibi sed patriae" (không vì mình mà vì quốc gia) Màu sắc Hành khúc Anchors Aweigh Tham chiến Chiến tranh Cách mạng Mỹ Chiến tranh Mỹ-Mexico Nội chiến Hoa Kỳ Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha Chiến tranh Mỹ-Philippines Chiến tranh chống Nghĩa Hòa Đoàn Đệ nhất Thế chiến Đệ nhị Thế chiến Chiến tranh Triều Tiên Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh vùng vịnh Chiến tranh Kosovo Chiến tranh Afghanistan Chiến tranh Iraq Các tư lệnh Tư lệnh HQ Đô đốc Jonathan W. Greenert Tư lệnh phó HQ Đô đốc Mark Ferguson Phi cơ sử dụng Cường kích F/A-18AC/D, F/A-18E/F Super Hornet, F-35C Điện tử E-2C, EP-3E, E-6, EA-6B, EA-18G Khu trục F/A-18C/D, F/A-18E/F Trực thăng UH-1, SH-3, CH-53D, MH-53E, SH-60, MH-60, CH-60 Tuần tra P-3, P-8 Thám thính RQ-2 Huấn luyện F-5, F-16N, T-2C, T-6, T-34, T-39, T-44, T-45, TH-57 Vận tải C-2, C-12, C-20, C-40, C-130 . xem tiếp >> [...]

Thứ Ba, 17 tháng 2, 2015

Posted by Unknown
No comments | 02:12

Bộ tứ ‘ngôi sao’ của Hạm đội 7

Hạm đội 7 biên chế 50-60 tàu, nhưng nổi bật nhất trong số đó là 4 loại tàu chiến đại diện sức mạnh Mỹ trên biển Thái Bình Dương.
USS George Washington – pháo đài Thái Bình Dương
Khi nhắc tớiHải quân Mỹ, người ta thường nghĩ tới ngay những chiếc tàu sân baykhổng lồ. Chúng như những pháo đài di động mang trong nó hàng nghàn con người cùng những phương tiện chiến tranh cực kỳ hiện đại.
Hiện nay, trong biên chế Hạm đội 7 có duy nhất một tàu sân bay mang tên vị Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ George Washington. Tàu sân bay này thuộc lớp Nimitz có lượng giãn nước lên tới 104.200 tấn, dài 332,8m. Lớp Nimitz được xem là tàu sân bay lớn nhất trên thế giới hiện nay.
Tất cả các tàu thuộc lớp Nimitz đều chạy bằng năng lượng hạt nhân cho phép di chuyển khắp nơi trên thế giới mà không cần tiếp nhiên liệu, tốc độ hành trình tối đa 30 hải lý/h.
Bộ tứ ‘ngôi sao’ của Hạm đội 7 (kỳ 1)
Tàu sân bay USS George Washington (CVN-73) là "ngôi nhà" giữa biển của hơn 6.000 thủy thủ và sĩ quan.
Lớp Nimitz thiết kế boong phóng máy bay dài 333m, rộng 77m, có 4 tháng máy để đưa máy bay từ khoang chứa lên boong phóng. Để giúp máy bay cất/hạ cánh, tàu sân bay thiết kế 4 máy phóng thủy lực và 4 cáp hãm đà.
Nimitz có khả năng chở tới 80-90 máy bay các loại. Trên tàu sân bay USS Geogre Washington biên chế Không đoàn số 5 trang bị:
- 4 phi đội tiêm kích F/A-18E/F thiết kế để tiêu diệt tất cả các mục tiêu trên không, trên mặt đất và đất liền. Máy bay trang bị vũ khí có độ chính xác cao, tầm bắn xa, sức công phá mạnh.
- Một phi đội máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm E-2C làm nhiệm vụ giám sát phát hiện tàu địch trên biển, trên bộ; điều khiển các tiêm kích hạm F/A-18E/F tấn công mục tiêu trên không/mặt đất; cảnh báo các cuộc tấn công máy bay cường kích hay tên lửa chống hạm đối phương…
Bộ tứ ‘ngôi sao’ của Hạm đội 7 (kỳ 1)
Phóng máy bay tiêm kích F/A-18 trên tàu sân bay USS George Washington.
- Một phi đội máy bay tấn công điện tử EA-18G trang bị hệ thống gây nhiễu điện tử, tên lửa chống radar làm nhiệm vụ áp chế hệ thống phòng không đối phương.
- Một phi đội máy bay vận tải hạng nhẹ C-2A làm nhiệm vụ đưa thư, hành khách từ trong đất liền ra tàu sân bay. Khi cần, nó cũng được dùng để vận chuyển động cơ máy bay hay phụ tùng linh kiện.
- Phi đội trực thăng SH-60F và HH-60H làm nhiệm vụ chống ngầm, tìm kiếm cứu nạn, chở quân đổ bộ đường không.
USS George Washington được thiết kế hệ thống phòng không hạng nhẹ như tổ hợp tên lửa đối không tầm trung Sea Sparrow và tổ hợp pháo bắn nhanh 20mm.
Tất nhiên, để bảo vệ con tàu đồ sộ như vậy thì 2 hệ thống này không đủ, thông thường biên đội tàu sân bay Mỹ khi hoạt động thường đi kèm đội tàu hộ tống.
Ticonderoga – Lá chắn bảo vệ George Washington
Đi kèm với tàu sân bay George Washington là 2 tuần dương hạm Cowpens (CG-63) và Shiloh (CG-67). Nó hợp thành nhóm tàu sân bay chiến đấu số 5 trong Hạm đội 7.
Cowpens và Shiloh là 2 lá chắn bảo vệ “pháo đài” George Washington chống tất cả các mối đe dọa từ trên không, tiêu diệt bất kỳ kẻ nào nhăm nhe tiếp cận.
Hai tuần dương hạm thuộc lớp Ticonderoga, có lượng giãn nước khoảng 9.800 tấn, dài 172,8m. Để vận hành con tàu khổng lồ này cần tới 358 thủy thủ và sĩ quan.
Ticonderoga trang bị 4 động cơ tuốc bin khí LM2500 cực khỏe, cho phép con tàu chạy với tốc độ tối đa 30 hải lý/h, tầm hoạt động hơn 10.000km.
Bộ tứ ‘ngôi sao’ của Hạm đội 7 (kỳ 1)
Tuần dương hạm lớp Ticonderoga USS Cowpens (CG-63).
Các chiến hạm Ticonderoga trang bị hệ thống chiến đấu Aegis tiên tiến. Aegis làm nhiệm vụ phát hiện, bám bắt mục tiêu, dẫn đường tên lửa đánh chặn và phá hủy máy bay, tên lửa hành trình, kể cả tên lửa đạn đạo.
Để làm được điều đó, Ticonderoga được trang bị kho vũ khí phòng không đồ sộ mà ít tàu chiến nước nào trên thế giới có được. Ticonderoga thiết kế 2 hệ thống ống phóng thẳng đứng Mk 41 (122 ống phóng) chứa hỗn hợp nhiều loại tên lửa:
- Tên lửa đối không tầm trung SM-2MR Block IIIB có tầm bắn 74-170km, độ cao 24.400m, tốc độ hành trình Mach 3,5.
- Tên lửa đối không tầm xa SM-2ER Block IV có tầm bắn 120-190km, độ cao bay tiêu diệt mục tiêu 24.400m.
Bộ tứ ‘ngôi sao’ của Hạm đội 7 (kỳ 1)
Tuần dương hạm USS Shiloh (CG-67) phóng tên lửa đánh chặn SM-3.
- Tên lửa đánh chặn SM-3 có tầm bắn siêu xa 500km, độ cao bay 160km, tốc độ bay 9.600km/h. SM-3 có khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm trung, tầm ngắn.
- Tên lửa đối không tầm trung RIM-162 ESSM có tầm bắn 50km. Nó chuyên dùng để đánh chặn tên lửa hành trình đối hạm siêu âm có tính cơ động cao.
- Tên lửa đối không tầm xa SM-6 có tầm bắn 240km, độ cao bay 33km.
- Tên lửa hành trình đối đất chính xác cao BGM-109 Tomahawk có tầm bắn tới 2.500km, tốc độ hành trình 880km/h. Kể từ cuộc chiến tranh vùng Vịnh 1991, Tomahawk luôn là “quân tiên phong” mở đầu các chiến dịch của Mỹ.
- Tên lửa chống ngầm RUM-139 VL-ASROC có tầm bắn 22km. Loại vũ khí này không lắp đầu đạn thuốc nổ thường mà mang theo một ngư lôi săn ngầm.
Bộ tứ ‘ngôi sao’ của Hạm đội 7 (kỳ 1)
Tuần dương hạm Shiloh phóng tên lửa hành trình đối đất tầm xa Tomahawk.
Ticonderoga có khả năng mang tất cả các loại tên lửa trên, hoặc kết hợp 2-3 loại theo yêu cầu nhiệm vụ.
Bên cạnh các vũ khí đối không, để tấn công đối phương, Ticonderoga vũ trang tổ hợp tên lửa hành trình đối hạm RGM-84 Harpoon (8 quả, tầm bắn 120km).
Tàu còn có 2 pháo hạm 127mm, 2 tổ hợp pháo bắn nhanh 20mm, 2 pháo 25mm, 2-4 súng máy 12,7mm. Các vũ khí này dùng để tấn công mục tiêu tầm gần, cỡ nhỏ.
Trong vai trò chống ngầm, nếu tàu không mang theo tên lửa săn ngầm RUM-139. Con tàu còn có sự hỗ trợ của 2 cụm máy phóng ngư lôi hạng nhẹ cỡ 324mm, 2 trực thăng săn ngầm SH-60B hoặc MH-60R.
Có thể nói, ít có tàu chiến nào trên thế giới sánh được với sức mạnh của Ticonderoga. Vì lẽ đó, Ticonderoga xứng đáng làm “lá chắn tên lửa” cho siêu pháo đài nổi George Washington.
------------------------------
Cùng với cặp đôi “Pháo đài George Washington – Lá chắn Ticonderoga”, 2 ngôi sao còn lại thuộc về tàu khu trục lớp Arleigh Burke và tàu ngầm hạt nhân lớp Los Angeles.
Arleigh Burke – “Ticonderoga thu nhỏ”
Hiện trong biên chế Hạm đội 7, Liên đội tàu chiến đấu số 15 (căn cứ Yokosuka, Nhật Bản) là đơn vị chính trang bị khu trục hạm tên lửa lớp Arleigh Burke.
Lớp tàu được chế tạo với lượng giãn nước tương đối lớn, gần bằng Ticonderoga. Hệ thống điện tử và vũ khí có nhiều điểm tương đồng với tuần dương hạm Hải quân Mỹ. Điều đó, làm nó trở thành một tàu “Ticonderoga thu nhỏ”, với sức mạnh không thua kém nhiều.
Khu trục hạm lớp Arleigh Burke được đóng với nhiều biến thể có lượng giãn nước từ trên 8.000 tấn tới 10.000 tấn.
Trong số 7 chiếc thuộc Liên đội số 15, 4 chiếc thuộc biến thể Flight I 8.215 tấn (dài 154m), 3 chiếc Fligh IIA 9.200 tấn (dài 155m). Các tàu đều lắp 4 động cơ tuốc bin khí LM2500 cực khỏe cho phép tàu đạt tốc độ tối đa 30 hải lý/h, tầm hoạt động hơn 8.000km. Để vận hành con tàu cần tới hơn 300 thủy thủ.
Tương tự Ticonderoga, Arleigh Burke cũng trang bị hệ thống chiến đấu tiên tiến Aegis. Hệ thống cung cấp cho tàu khả năng phát hiện, theo dõi, đánh chặn mọi mục tiêu trên không.
Bộ tứ ‘ngôi sao’ Hạm đội 7 (kỳ 2)
Khu trục hạm lớp Arleigh Burke USS Lassen (DDG-82) thuộc biến thể Flight IIA.
Vũ khí của Arleigh Burke có nhiều điểm tương đồng với Ticonderoga, nhưng giữa các biến thể lại tồn tại nhiều điểm khác. Arleigh Burke thiết kế với hệ thống ống phóng thẳng đứng Mk41 (chứa đạn tên lửa bên trong các ống phóng), những chiếc thuộc Flight I chỉ có 90 ống, còn Flight IIA có 96 ống.
Các loại tên lửa chứa trong ống phóng Mk41 trên tàu Arleigh Burke gồm: tên lửa hành trình đối đất BGM-109 Tomahawk, tên lửa chống hạm RGM-84 Harpoon(không có trên Flight IIA); tên lửa đối không tầm xa SM-2ER (chỉ có trên 4 chiếc Flight I, tầm bắn 120-190km); tên lửa đối không tầm xa SM-2MR (chỉ có trên 3 chiếc Flight IIA, tầm bắn 74-170km); tên lửa chống ngầm RUM-139.
Như vậy, đây là loại tàu chiến đa năng mạnh về khả năng phòng không, chống hạm, chống ngầm và thậm chí là đối đất. Riêng 3 chiếc Flight IIA thiết kế tập trung cho khả năng phòng không hạm đội, bỏ qua vai trò chống hạm.
Bên cạnh hệ thống tên lửa, lớp Arleigh Burke còn trang bị các loại pháo tầm gần như: pháo hạm 127mm, pháo phòng không 25mm, tổ hợp pháo phòng không bắn nhanh 6 nòng 20mm, súng máy 12,7mm.
Tất cả các tàu chiến Arleigh Burke đều thiết kế sân đáp trực thăng ở đuôi tàu, trong khi những chiếc thuộc Flight I chỉ mang 1 chiếc SH-60, thì loại Flight IIA mang tới 2 chiếc SH-60 săn ngầm.
Tàu ngầm Los Angeles – sát thủ dưới lòng biển
Cùng với hạm đội tàu chiến đấu mặt nước hùng mạnh, Hạm đội 7 còn sở hữu 3 “sát thủ ẩn mình dưới mặt biển” – tàu ngầm tấn công chạy động cơ hạt nhân lớp Los Angeles (USS Oklahoma City, USS Chicago, USS Buffalo thuộc Liên đội tàu ngầm số 15 đóng tại quần đảo Guam).
Tàu có lượng giãn nước 6.927 tấn (dưới mặt nước), dài 110m, rộng 10m, thủy thủ đoàn 129 người. Tàu được lắp một lò phản ứng hạt nhân PWR S6G sản sinh năng lượng giúp đạt tốc độ 20 hải lý/h, lặn sâu 290m.
Bộ tứ ‘ngôi sao’ Hạm đội 7 (kỳ 2)
Tàu ngầm tấn công chạy động cơ hạt nhân USS Oklahoma City.
Với năng lượng hạt nhân, con tàu có thể di chuyển khắp nơi trên thế giới. Gới hạn duy nhất mà nó khó vượt qua là vấn đề đảm bảo lương thực. Vì lẽ đó, trung bình còn tàu hoạt động liên tục trên biển chỉ 90 ngày.
Los Angeles thiết kế 4 máy phóng ngư lôi cỡ 533mm và hệ thống ống phóng thẳng đứng (12 ống) có thể bắn:
- Ngư lôi hạng nặng Mk-48 ADCAP có tầm bắn 40-50 km, tốc độ 55 hải lý/h, xuyên sâu xuống mặt nước 800m, lắp đầu đạn nặng 295kg.
- Biến thể tên lửa hành trình đối đất phóng từ tàu ngầm Tomahawk Block 3 đạt tầm bắn lên tới 3.100km.
- Tên lửa hành trình chống hạm phóng từ tàu ngầm UGM-84 Harpoon đạt tầm bắn 130km.
Như vậy, với kho vũ khí này, Los Angeles có khả năng tấn công tiêu diệt mọi mục tiêu dưới mặt biển, trên mặt biển và trên đất liền (ở khoảng cách cực xa).

0 nhận xét:

Tổng số lượt xem trang

Blog Archive

LIÊN HỆ

Tên

Email *

Thông báo *

Sample text