• Sĩ quan

    Các sĩ quan trong hải quân có cấp bậc lương từ O-1 đến O-10 trong đó bậc lương cao nhất là O-10; những người có bậc lương giữa O-1 đến O-4 được xem là các sĩ quan bậc thấp; O-5 và O-6 là cao cấp. Các sĩ quan từ bậc lương O-7 đến O-10 được gọi là các tướng soái (flag officer) hay "đô đốc". Việc thăng chức đến bậc lương O-8 (chuẩn đô đốc được dựa trên thành tích của một sĩ quan và do chính mình báo cáo và được cấp trên phê chuẩn. Việc thăng chức đến cấp phó đô đốc (O-9) và đô đốc (O-10) dựa trên vị trí công tác đặc biệt được giao phó và phải được Thượng viện Hoa Kỳ phê chuẩn. Cấp bậc trên đô đốc là thủy sư đô đốc (O-11) chỉ được gắn cho bốn sĩ quan trong thời Đệ nhị Thế chiến và chỉ có ý định tưởng thưởng trong lúc có chiến tranh được tuyên bố (tuyên chiến). Năm 1899, một cấp bậc thủy sư đô đốc có tên gọi tiếng Anh là "Admiral of the Navy" được tạo ra để tưởng thưởng cho đô đốc George Dewey, anh hùng của cuộc Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha nhưng với điều kiện cấp bậc này không còn hiện hữu khi ông mất.[28][29] Các sĩ quan thường được chia thành hai nhóm là sĩ quan chủ lực và sĩ quan công chính. Đến lượt sĩ quan chủ lực được phân ra thành hai nhóm nhỏ là có giới hạn và không giới hạn. Sĩ quan chủ lực không giới hạn là thuộc thành phần tư lệnh tác chiến và có quyền chỉ huy các con tàu, các phi đoàn không lực, và các đơn vị hành quân đặc biệt. Các sĩ quan chủ lực có giới hạn thì tập trung vào các lĩnh vực không liên quan đến tác chiến như kỹ thuật và bảo trì; nhóm này không đủ chuẩn để chỉ huy các đơn vị tác chiến. Các sĩ quan công chính là những chuyên viên trong những lĩnh vực chuyên môn của họ và không có liên quan đến quân sự như y tế, khoa học, luật pháp hay kỹ sư công chính. Xem tiếp >>[...]

  • Hải quân Hoa Kỳ

    Hoạt động 13/10/1775[1]–đến nay Quốc gia Hoa Kỳ Quân chủng Hải quân Lực lượng 319.950 người 284 tàu chiến +3700 phi cơ 11 Hàng không mẫu hạm 9 tàu tấn công đổ bộ 8 tàu vận tải viễn chinh 12 tàu vận tải bến 22 Tuần dương hạm 62 khu trục hạm 23 khinh hạm 3 tàu tác chiến duyên hải 71 tàu ngầm Bộ phận thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Bộ Hải quân Hoa Kỳ Tổng hành dinh Ngũ Giác Đài Khẩu hiệu "Non sibi sed patriae" (không vì mình mà vì quốc gia) Màu sắc Hành khúc Anchors Aweigh Tham chiến Chiến tranh Cách mạng Mỹ Chiến tranh Mỹ-Mexico Nội chiến Hoa Kỳ Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha Chiến tranh Mỹ-Philippines Chiến tranh chống Nghĩa Hòa Đoàn Đệ nhất Thế chiến Đệ nhị Thế chiến Chiến tranh Triều Tiên Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh vùng vịnh Chiến tranh Kosovo Chiến tranh Afghanistan Chiến tranh Iraq Các tư lệnh Tư lệnh HQ Đô đốc Jonathan W. Greenert Tư lệnh phó HQ Đô đốc Mark Ferguson Phi cơ sử dụng Cường kích F/A-18AC/D, F/A-18E/F Super Hornet, F-35C Điện tử E-2C, EP-3E, E-6, EA-6B, EA-18G Khu trục F/A-18C/D, F/A-18E/F Trực thăng UH-1, SH-3, CH-53D, MH-53E, SH-60, MH-60, CH-60 Tuần tra P-3, P-8 Thám thính RQ-2 Huấn luyện F-5, F-16N, T-2C, T-6, T-34, T-39, T-44, T-45, TH-57 Vận tải C-2, C-12, C-20, C-40, C-130 . xem tiếp >> [...]

  • Cơ sở và căn cứ trên bờ

    Các bộ tư lệnh đặt trách trên bờ tồn tại để hỗ trợ sứ mệnh của các hạm đội đi biển qua việc sử dụng các cơ sở vật chất trên bờ. Các cơ sở vật chất trên bờ rất là cần thiết cho các hoạt động liên tục và sẵn sàng của các lực lượng hải quân qua việc cung cấp nhiều dịch vụ như sửa chữa tàu, tiếp vận,... Nhiều bộ tư lệnh khác nhau hiện diện đã phản ánh được mức độ phức tạp của Hải quân Hoa Kỳ ngày nay gồm có các hoạt động tình báo hải quân đến viện huấn luyện nhân sự đến việc bảo trì các cơ sở vật chất. Hai bộ tư lệnh trông coi về việc sửa chữa và tiếp vận là Bộ tư lệnh đặc trách Hệ thống Hải lực Hải quân (Naval Sea Systems Command) và Bộ tư lệnh đặc trách Hệ thống Không lực Hải quân (Naval Air Systems Command). Các bộ tư lệnh khác như Cục Tình báo Hải quân (Office of Naval Intelligence), Cơ quan Quan sát Hải quân Hoa Kỳ (United States Naval Observatory), và Đại học Chiến tranh Hải quân (Naval War College) tập trung vào chiến lược và tình báo. Các bộ tư lệnh đào tạo gồm có Trung tâm Chiến tranh Không lực và Tấn công Hải quân (Naval Strike and Air Warfare Center) và Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Hải quân duy trì một số bộ tư lệnh các lực lượng hải quân để điều hành các cơ sở vật chất trên bờ và phục vụ như các đơn vị liên lạc với các lực lượng trên bộ địa phương thuộc không quân và lục quân. Các bộ tư lệnh này nằm dưới quyền của các tư lệnh hạm đội. Trong thời chiến tranh, tất cả các lực lượng hải quân được tăng cường để trở thành các lực lượng đặc nhiệm của một hạm đội chính. Một số bộ tư lệnh lực lượng hải quân lớn hơn tại Thái Bình Dương gồm có Các lực lượng Hải quân tại Triều Tiên (Commander Naval Forces Korea), Các lực lượng Hải quân tại Marianas (Commander Naval Forces Marianas), và Các lực lượng Hải quân tại Nhật Bản (Commander Naval Forces Japan) Xem tiếp >>[...]

  • Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự (Military Sealift Command)

    Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự (Military Sealift Command) không chỉ phục vụ Hải quân Hoa Kỳ mà còn phục vụ toàn thể Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong vai trò là cơ quan vận tải quân dụng đường biển. Cơ quan này vận chuyển trang bị, xăng dầu, đạn dược, và các vật liệu hàng hóa khác cho Quân đội Hoa Kỳ trên toàn thế giới. Trên 95% đồ tiếp liệu cần thiết cho Quân đội Hoa Kỳ được Bộ tư lệnh Hải vận Quân sự vận chuyển.[24] Cơ quan này có khoảng 120 tàu vận tải và khoảng 100 chiếc trừ bị. Bộ tư lệnh này là độc nhất vô nhị vì nhân lực trên các tàu của nó không phải là các quân nhân Hải quân hiện dịch mà là các nhân viên dân sự hay các thủy thủ thương mại hợp đồng. Xem tiếp >>[...]

  • Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ (U.S. Naval Special Warfare Command)

    Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ (U.S. Naval Special Warfare Command) được thành lập vào ngày 16 tháng 4 năm 1987 tại Căn cứ Đổ bộ Hải quân Coronado ở San Diego, California. Nó hoạt động như một thành phần hải quân của Bộ tư lệnh Hành quân Đặc biệt Hoa Kỳ (United States Special Operations Command) có tổng hành dinh ở Tampa, Florida. Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân cung cấp tầm nhìn, sự lãnh đạo, hướng dẫn học thuyết, nguồn lực và tổng quan để bảo đảm cho thành phần hải quân của các lực lượng hành quân đặc biệt sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng nhu cầu tác chiến của các tư lệnh tác chiến. Bộ tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ có tổng quân số 5.400 người trong đó có 2.450 binh sĩ SEAL và 600 binh sĩ thuộc lực lượng Special Warfare Combatant-craft Crewmen. Bộ tư lệnh này cũng duy trì một lực lượng trừ bị khoảng 1.200 binh sĩ trong đó có 325 binh sĩ SEAL, 125 binh sĩ "Special Warfare Combatant-craft Crewmen" và 775 nhân sự hỗ trợ Xem tiếp >>[...]

  • Sĩ quan

    Các sĩ quan trong hải quân có cấp bậc lương từ O-1 đến O-10 trong đó bậc lương cao nhất là O-10; những người có bậc lương giữa O-1 đến O-4 được xem là các sĩ quan bậc thấp; O-5 và O-6 là cao cấp. Các sĩ quan từ bậc lương O-7 đến O-10 được gọi là các tướng soái (flag officer) hay "đô đốc". Việc thăng chức đến bậc lương O-8 (chuẩn đô đốc được dựa trên thành tích của một sĩ quan và do chính mình báo cáo và được cấp trên phê chuẩn. Việc thăng chức đến cấp phó đô đốc (O-9) và đô đốc (O-10) dựa trên vị trí công tác đặc biệt được giao phó và phải được Thượng viện Hoa Kỳ phê chuẩn. Cấp bậc trên đô đốc là thủy sư đô đốc (O-11) chỉ được gắn cho bốn sĩ quan trong thời Đệ nhị Thế chiến và chỉ có ý định tưởng thưởng trong lúc có chiến tranh được tuyên bố (tuyên chiến). Năm 1899, một cấp bậc thủy sư đô đốc có tên gọi tiếng Anh là "Admiral of the Navy" được tạo ra để tưởng thưởng cho đô đốc George Dewey, anh hùng của cuộc Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha nhưng với điều kiện cấp bậc này không còn hiện hữu khi ông mất.[28][29] Các sĩ quan thường được chia thành hai nhóm là sĩ quan chủ lực và sĩ quan công chính. Đến lượt sĩ quan chủ lực được phân ra thành hai nhóm nhỏ là có giới hạn và không giới hạn. Sĩ quan chủ lực không giới hạn là thuộc thành phần tư lệnh tác chiến và có quyền chỉ huy các con tàu, các phi đoàn không lực, và các đơn vị hành quân đặc biệt. Các sĩ quan chủ lực có giới hạn thì tập trung vào các lĩnh vực không liên quan đến tác chiến như kỹ thuật và bảo trì; nhóm này không đủ chuẩn để chỉ huy các đơn vị tác chiến. Các sĩ quan công chính là những chuyên viên trong những lĩnh vực chuyên môn của họ và không có liên quan đến quân sự như y tế, khoa học, luật pháp hay kỹ sư công chính. Xem tiếp >>[...]

  • Hải quân Hoa Kỳ

    Hoạt động 13/10/1775[1]–đến nay Quốc gia Hoa Kỳ Quân chủng Hải quân Lực lượng 319.950 người 284 tàu chiến +3700 phi cơ 11 Hàng không mẫu hạm 9 tàu tấn công đổ bộ 8 tàu vận tải viễn chinh 12 tàu vận tải bến 22 Tuần dương hạm 62 khu trục hạm 23 khinh hạm 3 tàu tác chiến duyên hải 71 tàu ngầm Bộ phận thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Bộ Hải quân Hoa Kỳ Tổng hành dinh Ngũ Giác Đài Khẩu hiệu "Non sibi sed patriae" (không vì mình mà vì quốc gia) Màu sắc Hành khúc Anchors Aweigh Tham chiến Chiến tranh Cách mạng Mỹ Chiến tranh Mỹ-Mexico Nội chiến Hoa Kỳ Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha Chiến tranh Mỹ-Philippines Chiến tranh chống Nghĩa Hòa Đoàn Đệ nhất Thế chiến Đệ nhị Thế chiến Chiến tranh Triều Tiên Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh vùng vịnh Chiến tranh Kosovo Chiến tranh Afghanistan Chiến tranh Iraq Các tư lệnh Tư lệnh HQ Đô đốc Jonathan W. Greenert Tư lệnh phó HQ Đô đốc Mark Ferguson Phi cơ sử dụng Cường kích F/A-18AC/D, F/A-18E/F Super Hornet, F-35C Điện tử E-2C, EP-3E, E-6, EA-6B, EA-18G Khu trục F/A-18C/D, F/A-18E/F Trực thăng UH-1, SH-3, CH-53D, MH-53E, SH-60, MH-60, CH-60 Tuần tra P-3, P-8 Thám thính RQ-2 Huấn luyện F-5, F-16N, T-2C, T-6, T-34, T-39, T-44, T-45, TH-57 Vận tải C-2, C-12, C-20, C-40, C-130 . xem tiếp >> [...]

Chủ Nhật, 8 tháng 2, 2015

Posted by Unknown
No comments | 20:25
LỜI DẠY CỦA BỐ
Nhân dịp năm học mới 2014, tôi có viết một bài, trong đó là những lời dạy của Bố dành cho Con, và kinh nghiệm bản thân.
Đồng thời tôi cũng mạnh dạn đưa ra ý kiến, về hệ thống Giáo dục của Việt Nam, để mọi người tham khảo, và cùng chia sẻ kinh nghiệm.
Gia đình tôi rất đông anh em, bố mẹ sinh được bảy anh em . Nhưng chỉ có một chị gái thứ hai còn lại là sáu anh em trai. Lại trong thời điểm khó khăn nhất của dân tộc là kháng chiến chống mỹ cứu nước. Bốn anh em trong đó có tôi đi làm tròn nghĩa vụ quân sự.
Cụ thường dạy cho anh em tôi về võ thuật, âm nhạc, thơ ca, cụ nói :
"võ thuật nó cứng, thơ ca, âm nhạc nó mềm, trong đời sống con người phải có cương nhu, thắng một lần chưa phải là thắng, thua một lần chưa phải là thua, cái thắng ở đời là thắng về lý tưởng, tinh thần, cái thua ở đời là thua về sức khỏe, vật chất. Tinh thần, lý tưởng nó là bất diệt, sức khoẻ, vật chất nó là giới hạn, lấy cái giới hạn để nuôi dưỡng cái bất diệt, nên gia đình là giới hạn, còn đất nước là bất diệt. Các con phải nhớ kỹ điều đó "
Cụ giảng dạy cho lý thuyết sống ở đời Cụ nói:
"trí tuệ phải có sức khoẻ, tinh thần sáng tạo phải có cái tâm, muốn có cái tâm phải có niềm tin. trong xã hội phải có nhân tố, trong đất nước phải có gia đình, gia đình và từng con người trong gia đình phát triển tốt sẽ góp phần cống hiến cho đất nước, có vậy xã hội mới tiến lên."
Cụ giảng về đạo lý sống Cụ nói:
" cái ơn lớn nhất làm người ta không quên là ta cho họ trí tuệ, tinh thần, sức khoẻ, và tình cảm. Họ sẽ khó có thể trả cho ta. Còn vật chất, tiền bạc họ sẽ trả được đời trước không trả, đời sau sẽ trả"
Những lý thuyết mà Cụ đã truyền dạy cho Tôi thì tôi có trách nhiệm dạy lại cho Con.
Ngoài ra tôi áp dụng năm yếu tố để dạy con như sau:
YÊU THƯƠNG - NÓI THẬT - NGHIÊM TÚC - TÔN TRỌNG - ĐOÀN KẾT GIÚP ĐỠ
1- Yêu thương.
Bố Mẹ phải luôn dành tình yêu thương cho Con. Việc Mẹ cho Con bú ngoài các yếu tố về dinh dưỡng đảm bảo tốt cho Con, còn truyền cho Con năng lượng ruột thịt, tình mẫu tử thiêng liêng, tinh thần và trách nhiệm mà tạo hoá đã ban cho. Khi mẹ bế Con trong lòng cho Con bú từng giọt sữa, hát cho Con nghe từng lời ru, tâm hồn Con được an, lòng Mẹ thấy ấm.
Tối thiểu nhất Con phải được bú sữa Mẹ đến khi tròn một tuổi.
Xã hội có phát triển đến đâu nhưng cái cội nguồn mẫu tử không thể thay đổi, nay có nhiều bạn trẻ tự mình đánh mất chức năng làm Mẹ, không cho Con bú, không biết hát ru, mọi thứ đều do người giúp việc. Vô tình Mẹ đã từ bỏ tình mẫu tử thiêng liêng ấy! tâm Con không an, lòng Mẹ không ấm hỏi rằng tình mẫu tử còn không ?! Ngày xưa Con hay theo Mẹ, còn nay thì Con hay theo Bố là vì vậy.
2- Nói thật.
Việc giáo dục bản chất cho Con trẻ phải được chuẩn bị ngay từ khi lọt lòng. Việc nói thật với Con sẽ tạo nên bản chất đáng quý cho Con sau này. Ông, Bà, Bố, Mẹ, các thành viên trong gia đình, bạn bè, và người giúp việc không được nói dối, những câu chuyện ngụ ngôn, những bài thơ dân gian, những lời nói hành động của người lớn trước mặt Con trẻ không được thể hiện sự giả dối. Mọi sự giải thích cho Con phải có tính khoa học và thực tiễn.
VD:
Con bò vào góc nhà lấy que chọc vào ổ điện. Ta phải nói rõ sự nguy hiểm chết người chứ không được nói là " ôi ở đó có con sâu nó cắn chết đó" !
Con ra ao chơi, ta phải nói về việc ngã xuống ao, Con không biết bơi sẽ bị chìm và có thể ngạt thở gây chết người. Chứ không được nói " ôi ở đó có mẹ mìn nó dìm chết đó" !
Ban đêm Con ra vườn, ra sân ta phải nói, Con cẩn thận trời tối có thể ngã, hoặc có Muỗi đốt, hay Côn Trùng đốt, chứ không được doạ " ngoài đó có Ma đấy"!
Nếu ta cứ nói dối Con, sau này Con sẽ nói dối Ta. Xã hội sẽ sinh ra người nói dối đó là bản chất của giáo dục nhân cách là sự suy đồi của lối sống. Gây ra lừa lọc, trộm cắp, mua bằng, tham ô, tham nhũng v.v...
3- Nghiêm túc.
Ngay từ nhỏ, Bố, Mẹ phải có tính nghiêm túc và kỷ luật với Con cái. Nó thể hiện ngay từ trong công việc, sự gương mẫu của Bố, Mẹ, lối sống của Bố, Mẹ.
Không cờ, bạc, rượu, chè, nghiện hút, tệ nạn xã hội.
"Gương Mẫu, có nghĩa ... Bố Mẹ là tấm gương cho Con".
Nói thì phải làm, làm thì phải làm tốt, muốn làm tốt thì phải học tập tốt, kỷ luật tốt, sáng tạo tốt, trách nhiệm tốt. Sự nghiêm túc, là yếu tố hình thành tính cách cho Con.
4- Tôn trọng.
Tôn trọng có nghĩa là khẳng định giá trị của mình, tôn trọng mọi người là tôn trọng chính mình, dạy cho Con sự tôn trọng công việc của mọi người, từ Bác nông dân, người lao công, đến người có trí thức, hay là quan chức...
Tạo hoá sinh ra mỗi người một nghành nghề, người có trí tuệ, sức khoẻ, có điều kiện học tập tốt thì sau làm người trí thức, làm quan chức. Người có trí tuệ, sức khoẻ nhưng thiếu may mắn không được học tập và đào tạo tốt thì làm người lao động, những người ốm đau bệnh tật không lao động được thì cần sự giúp đỡ của mọi người.
Ta cần giải thích rõ cho Con về quy luật ấy của tạo hoá, để hình thành cốt cách và đạo đức trong quy luật sinh tồn để Con hoà đồng vào xã hội, sẽ không còn khái niệm giai cấp, hay sự phân biệt đối xử bất bình đẳng trong đời sống con người.
5- Đoàn kết giúp đỡ.
Bố, Mẹ luôn phải đoàn kết giúp đỡ con trong sinh hoạt, học tập, và lối tư duy. Phải lấy truyền thống dòng tộc, quê hương, đất nước, làm nền tảng cho sự phát triển của Con. " cây phải có gốc, người phải có tổ tông, non sông phải có nguồn cội " đó là cái lý ở đời muốn cho cây tốt, người tốt, non sông tốt, thì phải vun đắp chăm sóc và giúp đỡ, thì mọi thứ mới phát triển. Giúp đỡ là làm cho việc đó tốt hơn, đẹp hơn. Còn phá hoại là làm cho việc đó tồi hơn, xấu hơn.
Định hướng cho con mở rộng tấm lòng mình mà đón nhận, và trao lại. Con đón nhận của Bố, Mẹ hay của ai đó điều gì thì con phải biết ơn điều đó, và ngược lại con phải mở lòng mà giúp đỡ mọi người. Sự giúp đỡ và đón nhận là quy luật tương sinh, tương hỗ tạo nên một xã hội đoàn kết, có đoàn kết mới có thành công.
Tóm lại việc dạy Con cái được đúc kết lại như sau:
" Công Cha như núi Thái sơn,
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra,...
Mẹ nguồn dinh dưỡng nuôi ta,
Cha nguồn sáng tạo cho ta tinh thần,
Ơn Thầy, Cô dạy ân cần,
Tinh thần học tập góp phần dựng xây
Non sông, đất nước, trời mây,
Tổ tiên gây dựng đắp đầy tâm can,
Giữ yên bờ cõi mới an,
Là con nước Việt, giang san Lạc Hồng,
Bác Hồ đã dạy chữ đồng,
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh.
Chúng ta gắng học chữ Minh,
Minh trí, minh đức, minh tâm, minh tài!
( tiện đây tôi đưa ra phân tích và so sánh về triết lý của nền giáo dục nước Mỹ và ứng dụng của giáo dục Việt Nam.)
TRIẾT LÝ GIÁO DỤC
Định nghĩa triết lý giáo dục:
"Triết lý giáo dục, là những lý luận triết học, được trải nghiệm, và đúc kết, trong lịch sử sinh tồn của nhân loại. Nhằm tiến tới hoàn thiện toàn diện cho con người. Phục vụ lợi ích của con người."
Lương Ngọc Huỳnh
Nếu chúng ta cùng nhau nghiên cứu để xây dựng nên một nền triết lý giáo dục cho Việt nam điều đó sẽ là nền tảng cho việc đào tạo con người một cách toàn diện.
Nền giáo dục của nước Mỹ dựa trên 5 thuyết sau:
1- Thuyết bản chất." Essentialism"
2- Thuyết trường tồn. " Perennialism "
3- Thuyết tiến bộ. " Progressivism "
4- Thuyết cải tạo xã hội. " Social reconstructionism "
5- Thuyết hiện sinh. " Existentialism "
Để phù hợp với phong tục, tập quán, văn hoá, lịch sử của nước ta chúng ta nên xây dựng triết lý giáo dục cho thế hệ trẻ như sau:
1- Thuyết nguồn gốc : là học thuyết căn bản về nguồn gốc con người. Cội nguồn của dân tộc của đất nước. Đưa ra những chứng cứ lịch sử có tính thuyết phục, không mang tính truyền thuyết, thần thoại, vào lịch sử cội nguồn, làm cho học sinh hiểu đúng bản chất tạo hoá.
Điều này là căn bản bắt buộc, để xây dựng nên kiến thức có nền tảng khoa học vững bền, chứ không phải dựa vào những câu truyện truyền thuyết mơ hồ, không có cơ sở chắc chắn. Khi ta gieo hạt vào nơi không trời không đất con người không có điểm tựa để phát triển bền vững.!
2- Thuyết sinh tồn : là học thuyết, nhằm chỉ ra cho học sinh cách tự sinh tồn, tự bảo vệ sức khoẻ và tính mạng, dựa trên những bản năng vốn có, kiến thức xã hội được tiếp thu trong quá trình đào tạo. Ta nên tạo cho các em học cả lý thuyết và thực hành, dã ngoại sinh tồn vào các dịp nghỉ hè tạo cho các em thích nghi với điều kiện của tự nhiên. Cho các em 1-2-3 ngày, rồi tăng dần khả năng tự sống trong môi trường thiên nhiên.
3- Thuyết phát triển : là học thuyết phát huy, phát minh kiến thức cả về tư duy, hành động. Tạo cho học sinh phát triển đa dạng, phong phú trong đời sống. Bao gồm đầy đủ những kỹ năng cơ bản nhất của đời sống văn minh. Từ Văn Hoá, Giáo Dục, Thể Thao, Y Học, Xã Hội Học, Tinh Thần v.v.... Khuyến khích tạo cơ hội, tạo đà cho các em sáng tác, phát minh, tất cả các lĩnh vực của đời sống.
4- Thuyết cân bằng : là học thuyết dung hoà tất cả mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, để không bị thiếu, không bị dư thừa cả về vật chất lẫn tinh thần. Dạy cho học sinh phương pháp quan sát tất cả các hiện tượng tự nhiên, các phát sinh trong đời sống loài Người, để cân bằng sinh thái, môi trường, vạn vật, là nền tảng để duy trì sự tồn tại lâu dài của loài Người trên trái đất.
5- Thuyết tái sinh : là học thuyết tiết kiệm, và tái tạo năng lượng sống cho hành tinh, đồng thời tìm kiếm năng lượng sống trong Vũ Trụ, để phục vụ cho sự trường tồn của loài Người. Trong đó chú trọng đến những tài nguyên duy trì sự sống và phát triển của Con Người.
6- Thuyết tín ngưỡng: là học thuyết tinh thần, là đức tin trong đời sống tâm linh của Con Người, tham khảo những tác phẩm kinh điển trong đời sống tinh thần như Phật giáo, Thiên chúa giáo V.v... Hay là những truyền thuyết về tạo hoá, để học sinh có cái nhìn tổng quan về những giá trị của triết lý, đã được đúc kết trong lịch sử Nhân Loại.
7- Thuyết quản lý: là học thuyết làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, dựa trên nền tảng Dân chủ, Công bằng, Văn minh. Dạy cho các em các kiến thức, để tạo ra quy luật trong quản lý, và điều hành chiến lược tầm Vĩ mô. Muốn làm được điều đó ta phải xây dựng một Hiến pháp, một bộ Luật công bằng, bao trùm mọi khía cạnh trong đời sống xã hội của Việt Nam.
Bộ Giáo Dục Việt Nam trong nhiều năm qua, vẫn chưa đưa ra được một Triết lý Giáo Dục có tính hệ thống cho thế hệ mai sau, Tôi xin mạn đàm và đưa ra những ý kiến đóng góp cơ bản, để Bộ Giáo Dục, các nhà lý luận, triết học, lịch sử, khoa hoc... Trên cơ sở đó, nghiên cứu, xây dựng cho Đất nước ta một nền giáo dục căn bản, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
Xin chân thành cảm ơn!
Moscow ngày 24-08-2014
Tác giả: Giáo sư- Viện sĩ Lương Ngọc Huỳnh.

0 nhận xét:

Tổng số lượt xem trang

Blog Archive

LIÊN HỆ

Tên

Email *

Thông báo *

Sample text